Trong bài viết này, xin tiếp tục phục vụ bạn đọc đôi điều thú vị trong ngôn ngữ của cư dân Nam Bộ, là chủ đề đã đề cập trên Báo Cần Thơ, gần đây là bài "Mấy cách nói đặc trưng của người Nam Bộ". Ở đây, xin nói về biến hóa ngữ nghĩa của từ và tiếng liên quan đến sông nước.

Diễn ngôn của người Nam Bộ mang đậm dấu ấn sông nước. Ảnh: DUY KHÔI
Do nhiều nguyên nhân, nhất là xuất phát từ đặc điểm địa lý, một số từ và tiếng trong sinh hoạt đời sống thường ngày được cư dân Nam Bộ sáng tạo mới, làm giàu thêm kho từ vựng trên cái nền của một cảnh quan chung: đâu đâu cũng mênh mông sông nước. Do việc sinh hoạt, đi lại, cách kiếm sống cũng gắn bó mật thiết với sông nước nên cư dân Nam Bộ có những cách dùng từ hình tượng, ẩn dụ liên quan rất phong phú.
Với từ "giang" - có ngữ nguyên là "sông" - dân gian xưa nói "có giang" là đi nhờ phương tiện thủy của người khác (ghe, xuồng), ngày nay nói chung thì có cả đi nhờ xe (phương tiện bộ). Có khi tháp tùng đi bộ theo người khác cũng nói vui là "có giang". Đặc biệt, người ta cũng nói "quá giang" (qua sông), ví như trong câu hát cũ: "Trầu têm một lá / Trình má biết cho / Một hai trót đã hẹn hò / Trẻ thơ trót dại đã theo đò quá giang / May ra chung quán chung làng / Thì câu tình ngãi đá vàng cũng chung".
Bên cạnh đó có "giang hồ" trước đây được dùng chỉ người sống nay đây mai đó một cách tự do, phóng khoáng kiểu "giang hồ hiệp khách". Sau có cách hiểu là những người sống nghề mua bán trên sông nước kiểu "gạo chợ nước sông"; nhưng dần về sau người ta lại có thêm cách dùng "giang hồ" như một từ lóng, chỉ những người xấu, sống bên lề xã hội.
Ở Nam Bộ, các từ liên quan đến "nước" hay "thủy" - xuất hiện nhiều trong địa danh như Cái Nước, Nước Trong, Nước Đục, Đầu Nước, Bình Thủy, Tiên Thủy, Hòa Thủy, Tân Thủy, An Thủy, Thái Thủy, Thủy Thuận… Đã có sông nước thì phải có bến lên xuống, vậy là ở Nam Bộ có Bến Nghé, Bến Sắn, Bến Tre... Từ "nước" còn nhiều cách nói ẩn dụ. "Tới nước", "tới bến" tức là đến tận cùng, đến tận lúc này; "lên nước" chỉ vật thể rắn đã được gia công cho bóng, "xuống nước" chỉ người đang "trên cơ" bỗng dưng bị thất thế phải dịu giọng, "được nước" tức là nhân lúc người khác nhường nhịn thì làm tới. "Cho nước" là khuyến khích để người ta sung lên...

Vịt chạy đồng. Ảnh: DUY KHÔI
Thú vị hơn nữa, món ăn "có cái có nước" như mắm kho, canh chay hoặc mặn... được để trong "lẩu" hình dáng như cái tô lớn, ở giữa có làm nơi để than hồng giúp món ăn luôn nóng và chỗ để than nổi cao lên với xung quanh là nước giống cù lao trên sông, nên cư dân Nam Bộ đặt tên là lẩu cù lao - món cù lao. Theo chiều hướng đó ta thấy có vô số từ và tiếng được dân gian quen dùng xuất phát cuộc sống xoay quanh sông nước.
"Đuối" bên cạnh nghĩa đuối nước, thì ở Nam Bộ còn có đuối lý, đuối sức, đắm đuối. "Hụt hơi" dùng để tả khi lội đi quá xa và không thể trụ nổi, rồi dần dành để nói về làm việc gì mà cố gắng quá sức, khó có khả năng hoàn thành. "Lái" không chỉ là lái tàu ghe, mà chỉ hành động đang nói chuyện này mà tìm cách tránh bằng cách qua chuyện khác. "Câu" không chỉ là câu cá, mà còn là "câu khách" tức bày ra nhiều cách thế để thu hút người khác hoặc câu dày, câu mỏng ngầm ý gạt kẻ khác để đem lợi cho mình. "Chèo đai" là nói cầm chừng, không chịu kết thúc. "Bỏ trôi" chỉ hành động không xử lý rốt ráo vấn đề. "Lặn hụp" tức hay vắng mặt bất thường, có ý trốn tránh. "Quậy đục nước" chỉ những người hay phá rối. "Nước đổ lá môn", "Nước đến chân mới nhảy", "Đục nước béo cò", "Đất bằng sóng dậy"… là những thành ngữ quen thuộc.
Các từ liên quan đến ghe tàu với những tập tục, vật dụng gắn liền cũng được sử dụng với nhiều nghĩa biến hóa. Đơn cử, để nói về những người đàn ông là rể trong một gia đình, thì gọi là anh em "cột chèo" (nhưng với những người nữ cùng làm dâu thì gọi "chị em bạn dâu", chứ không gọi "chị em bạn cột chèo", vì chèo ghe là việc rất nặng nhọc). "Giả đò" là làm bộ không nghe biết. "Kéo bè kéo cánh" tạo phe phái, bè đảng. "Bánh quai chèo" là loại bánh ngọt có hai cọng bột bằng ngón chân cái xoắn xuýt nhau như dây quai chèo. "Ghe chài chở trấu" chỉ những người có sức vóc mà giao hoặc nhận việc quá nhẹ nhàng. "Xử chìm xuồng" chỉ những trường hợp người có trách nhiệm không phân xử cho ra lẽ, cố ý buông xuôi. "Mất cả chì lẫn chài", "Đứng mũi chịu sào", "Mũi dại lái chịu đòn", "Buông giầm cầm chèo", "Xuôi chèo mát mái"... là những cách nói dùng ghe tàu làm hình ảnh ẩn dụ, hầu như ai cũng hiểu.
Cuộc sống sông nước không thể thiếu sản vật và hình ảnh cá tôm được sử dụng với nhiều nghĩa bất ngờ. "Sặc rằn" chỉ đầu tóc bị cắt hư do thợ vụng. "Ngâm tôm" chỉ vụ việc đưa đến mà không chịu giải quyết, cứ neo lại, để đó mãi, bắt người ta phải chờ mòn mỏi (tôm là con vật biết "bắn lùi" do đó càng trông đợi càng tuyệt vọng). "Tép rong tép riu" là nhỏ nhặt không đáng kể. "Tép lặn tép lội" ý chỉ người nói chuyện nhanh nhẹn, sao cũng nói được để người nghe vui. "Rộng" tạm nhốt giữ một thời gian để "xử lý" sau (như rộng cá để bắt ăn dần). "Vuốt đuôi lươn" chỉ hành động nói theo người khác chứ không tỏ rõ lập trường. "Đập nước lấy cá" là làm hung làm dữ lên cho người ta sợ mà ăn tiền...
Trên đây chỉ là một số liệt kê, trong ngôn ngữ dân gian hằng ngày còn rất nhiều từ và tiếng được dùng với nghĩa đen, nhưng cũng có nhiều hóa ngữ nghĩa, hình tượng hoặc ẩn dụ. Những cách dùng này vẫn phổ biến và vô tình hay hữu ý khiến người nghe hình dung cuộc sống sông nước Nam Bộ đặc sắc.
NGUYỄN HỮU HIỆP