11/11/2025 - 21:34

Hợp tác đa bên, phát triển bền vững chuỗi cung ứng thủy sản vùng ĐBSCL 

ĐBSCL giữ vai trò là thủ phủ thủy sản của Việt Nam, cung cấp hơn 70% sản lượng nuôi trồng và trên 60% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, để duy trì vị thế này, chuỗi cung ứng thủy sản đang đối mặt với nhiều thách thức, liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi còn lỏng lẻo. Theo các chuyên gia, việc xây dựng mô hình hợp tác đa bên để xây dựng một chuỗi giá trị thủy sản bền vững là yêu cầu cấp bách.

Nhận diện thách thức

Những năm gần đây, chuỗi cung ứng thủy sản của vùng ĐBSCL từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường khó tính. Theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh ĐBSCL (VCCI), điểm sáng của ngành thủy sản Việt Nam là các doanh nghiệp (DN) dẫn đầu ngành luôn tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của thị trường xuất khẩu. DN tham gia thị trường rất nhiều năm và đưa sản phẩm đến khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Mô hình nuôi tôm rừng ở tỉnh Cà Mau.

Theo bà Võ Thị Thu Hương, Phó Giám đốc VCCI ĐBSCL, bên cạnh những điểm sáng, chuỗi cung ứng thủy sản của vùng ĐBSCL vẫn đối mặt với nhiều thách thức. DN thủy sản hiện nay đã làm chủ phần lớn tất cả các khâu trong sản xuất, chế biến, nuôi trồng thủy sản, chế biến sâu, xử lý phụ phẩm. Nhiều DN mở rộng đầu tư đa ngành như chế biến thức ăn, sản xuất phân bón… đa dạng hóa đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, những DN ở quy mô nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi để nâng cao chất lượng, đảm bảo vấn đề về môi trường. Về hợp tác theo mô hình liên kết "bốn nhà", Nhà nước đã tạo điều kiện như ưu đãi vốn đầu tư cho ngành thủy sản, nhất là những dự án có ứng dụng khoa học công nghệ trong quá trình đầu tư được miễn giảm thuế đất, thuế nhập khẩu máy móc thiết bị… Thực tế, nhiều DN vẫn gặp khó khăn về tiếp cận nguồn đất đai, có những chính sách rất tốt nhưng tiến độ tiếp cận cũng còn tương đối chậm.

TS Hoàng Vũ Quang, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, chủ trương chung của Nhà nước từ nhiều năm nay và định hướng thời gian tới là thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, trong đó có ngành hàng thủy sản. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích liên kết theo chuỗi giá trị và triển khai qua nhiều năm. Tuy nhiên, quy mô liên kết theo chuỗi giá trị còn thấp và chưa thực sự bền vững. Các mô hình liên kết khá đa dạng, song tổng diện tích liên kết nhỏ, quy mô liên kết của từng DN, từng hợp tác xã (HTX) còn thấp… Cơ chế tín dụng theo chuỗi giá trị đối với DN và HTX đầu mối chưa thực sự hiệu quả. Việc hỗ trợ HTX xây dựng và hoàn thiện hạ tầng phục vụ liên kết như về chính sách đã có, nhưng triển khai còn chậm và chưa đồng bộ.

Để các bên cùng thắng

Công ty TNHH Xã hội tôm chứng nhận Minh Phú thuộc Tập đoàn Minh Phú ra đời nhằm hợp tác với các đối tác và nông dân xây dựng vùng nguyên liệu nuôi tôm đạt chứng nhận đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu. Công ty đang liên kết xây dựng vùng nuôi tôm lúa, tôm rừng khoảng 1.732 ao nuôi với diện tích 3.450ha và đạt các chứng nhận như EU ORGANIC, CANADA MANGROVE, SFW, SELVA, ASC, BAP…

Theo ông Lâm Thái Xuyên, Giám đốc Công ty TNHH Xã hội tôm chứng nhận Minh Phú, liên kết trong chuỗi giá trị ngành hàng là một quá trình hợp tác đa bên, để làm đa chứng nhận, bán đa thị trường. Theo đó, công ty bố trí chuyên gia hỗ trợ nông dân thực hiện mô hình nuôi tôm quảng canh. Cần tập hợp các hộ dân nhỏ lẻ thành nhóm, tổ hợp tác và để hợp tác lâu dài cần sự tham gia của hợp tác xã. Để mô hình đạt các chứng nhận quốc tế phải minh bạch về thông tin, các bên cùng công ty đồng tâm tháo gỡ mọi khó khăn. Trong mô hình cần sự tham gia của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn, các tổ chức trong nước và quốc tế, các viện, trường, các nhà khoa học, chuyên gia, HTX và người dân nuôi tôm. Việc thúc đẩy hợp tác công - tư - cộng đồng, giữa chính quyền địa phương, cộng đồng cư dân địa phương, các DN và các đối tác liên quan khác nhằm đảm bảo sự phối hợp các bên liên quan cùng thiết kế và thực hiện mô hình, chia sẻ về trách nhiệm và tính làm chủ, đồng thời góp phần nhân rộng mô hình theo hướng bền vững.

Theo bà Võ Thị Thu Hương, thời gian tới cần có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đối với cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, phát huy vai trò của ứng dụng khoa học công nghệ theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Những dự án ứng dụng khoa học công nghệ cao được xem xét hỗ trợ về lãi suất so với những dự án không có ứng dụng khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, việc quan tâm đầu tư về nguồn nhân lực là vấn đề căn cơ đối với ngành thủy sản Việt Nam, giúp cho DN chủ động hơn trong tất cả các khâu. Đồng thời, DN cần tăng cường quản trị rủi ro, quản trị sự thay đổi và đa dạng hóa đầu tư để mang lại lợi nhuận tốt hơn cho DN, góp phần ổn định đời sống kinh tế - xã hội của người dân.

Theo TS Hoàng Vũ Quang, để liên kết chuỗi giá trị nông sản bền vững, cần ưu tiên hỗ trợ liên kết phục vụ xuất khẩu quy mô lớn, sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng cao. Trong đó, DN đóng vai trò quyết định trong liên kết chuỗi giá trị, chính sách hỗ trợ phải tạo động lực và khuyến khích DN đẩy mạnh liên kết. Đồng thời, HTX đóng vai trò quan trọng là cầu nối giữa DN với nông dân. Cần ưu tiên hỗ trợ HTX tham gia liên kết chặt chẽ và chia sẻ vai trò với DN. Về chính sách cần thúc đẩy cơ chế hợp tác công tư trong xây dựng vùng nguyên liệu lớn gắn với liên kết chuỗi giá trị. Các hoạt động liên kết sản xuất phải đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng đặc thù (GAP). Quan trọng là DN có tiềm lực tài chính, thị trường ổn định, HTX có năng lực tốt, có sự quan tâm của chính quyền địa phương, nông dân có kinh nghiệm sản xuất theo tiêu chuẩn. Hợp đồng liên kết đầy đủ, rõ ràng, có cơ chế chia sẻ rủi ro, có sự tư vấn, hỗ trợ bên ngoài để đảm bảo quyền lợi các bên liên quan.

Bài, ảnh: MINH HUYỀN

Chia sẻ bài viết