Trần Kiều Quang
Cũng như nón hay quần áo, đôi guốc ban đầu chỉ có chức năng bảo vệ cơ thể con người, mà cụ thể ở đây là bảo vệ đôi chân mỗi khi tiếp xúc với mặt đất. Sau này, guốc mới kiêm thêm chức năng làm đẹp. Khi chức năng thẩm mỹ xuất hiện, đồng nghĩa với xã hội đã phát triển, thì guốc càng phong phú về số lượng, đa dạng về chủng loại, yếu tố thẩm mỹ cũng ngày được chú trọng...
Người Việt xưa đa phần là đi chân trần, chỉ có vua chúa và quan lại mới mang giày. Thói quen đi chân trần đến thời Trần vẫn còn phổ biến. Mãi đến đầu thế kỷ XX, "đa số dân chúng miền Nam (nhất là ở thôn quê) vẫn còn đi chân không suốt ngày, ngoại trừ buổi chiều tối đi tắm, thay đồ, mới mang guốc để chuẩn bị lên giường đi ngủ"(1). Hoặc có một đôi "làm vía" để dành đi xa hoặc dự tiệc tùng.
Về lý do tại sao có thói quen đi chân trần như trên thì có khá nhiều kiến giải khác nhau. Một trong những lý do của thói quen đi chân trần được cho là do người Việt ít khi giết trâu bò để ăn thịt nên không có da để làm giày dép. "Ðại Việt sử ký toàn thư" còn cho biết vào năm 1182, triều đình ban lệnh cấm không được giết trâu. Còn cụ Lê Quý Ðôn thì giải thích là vì nước ta là nơi nóng ẩm, nhân dân lúc bình thường không đội khăn, không đi giày, động tác mới thuận tiện, việc này đã thành thói quen rồi không thể thay đổi được ("Kiến văn tiểu lục")(2).
Từ cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong sự giao lưu với văn hóa phương Tây, các loại giày, dép mới phổ biến dần dần ở vùng Nam Bộ. Về guốc thì lúc bấy giờ phổ biến có guốc ngù và guốc mộc.
"Guốc ngù ngà một thời từng được phụ nữ miền Nam ưa chuộng. Guốc ngù ngà rất đặc biệt vì nó không có quai mà chỉ có một cái ngù để người đi guốc kẹp vào giữa ngón chân cái và ngón chân kế bên. Cái ngù ấy thường bằng ngà nên gọi là ngù ngà; cũng có khi là ngù xương, ngù đồng. [...] Guốc ngù ngà thịnh hành những năm 1916-1917 rồi không thấy nữa. Xung quanh sự biến mất của guốc ngù ngà, người ta thêu dệt những giai thoại rất hài hước. Một giai thoại kể rằng: do giá thành quá đắt mà mấy ông chồng, để bảo vệ cái hầu bao của mình trước những bà vợ thích làm sang, đã lập mưu đưa tiền cho một tờ bảo tung tin rằng đi guốc ngù ngà có thể gây bệnh nan y vì cái ngà đó trong quá trình cọ xát thường xuyên với da người sẽ gây thẩm thấu chất độc từ ngà vào cơ thể"(3).
Guốc mộc được làm bằng thân cây vông là loại guốc được dùng phổ biến trong giới bình dân, nhưng "hồi xưa, ai làm nấy xài, chưa có kiểu da cao su, da quai nhung đóng vắt ngang như kiểu guốc tân thời. Hồi đó, guốc cây vừa dày vừa thô, mỗi bên hông có khoét lỗ hình chữ nhật. Rồi muốn gắn quai, người ta chêm mỗi bên một miếng nêm bằng cây; đi lâu lâu hoặc vấp, miếng nêm lỏng hay văng ra thì người ta dựng lại và ngồi xuống, vỗ, chêm lại cho cứng. Nói về quai guốc xưa thì rất đơn giản, gặp cái gì chăn chắc và dẻo dai thì người ta lấy làm quai; vỏ dừa khô thường được làm quai nhất. […] Từ năm 1910 loại guốc một quai, đóng đinh hai đầu quai, vắt ngang năm đầu ngón chân đươc truyền bá bắt đầu từ Sài Gòn (nên gọi là guốc Saigon) lan khắp miền Nam và khắp nước Việt Nam. Lúc đầu guốc này không sơn, lần lần có sơn màu (thường màu đen hoặc đen nâu) để phục vụ phái yếu nên được quen gọi là guốc sơn để phân biệt với guốc vong trước kia không có sơn"(4).

Chương trình "Để cho guốc mộc sống đời dài thêm". Ảnh: Cẩm Tuyết - Nguyệt Nhi, plo.vn
Từ năm 1945 về sau, đôi guốc có nhiều thay đổi về màu sắc như: "Sơn vẽ đủ thứ, quai cũng đủ loại, lại thêm kiểu 2 quai và kiểu cao gót cả tấc"(5). Có thể nói, từ thời điểm này trở đi, guốc mộc đã "thực sự bước vào một cuộc cách mạng về kiểu dáng về chất liệu, khẳng định là thời trang ưu ái cho phái đẹp, cùng với váy áo. Guốc mộc đã vượt qua khuôn khổ của mộc và sự đơn điệu về kiểu dáng với sự xuất hiện của chất liệu nhựa…"(6).
Ðặc biệt, "bước sang thế kỷ XXI, guốc lên ngôi với sự bùng nổ về kiểu dáng, màu sắc và chất liệu. Quy trình sản xuất guốc là thiết kế mẫu với độ dốc như thế nào để đảm bảo đường cong mặt guốc phù hợp với phần lõm của lòng bàn chân, trọng lực hợp lý không làm tổn hại đến cột sống và còn có thể mát-xa các huyệt đạo của người mang guốc. Quai thì đủ loại, đủ hình dạng, màu sắc và chất liệu, từ nhựa, simili đến nhung, vải, ni lông, thêu và đính cườm, cẩn đá, chạm bạc...; loại đơn đến quai kép, xỏ ngón. Guốc đã đi gần đến với xăng-đan và giày khi có thêm quai hậu. Dáng guốc đa dạng với mũi vuông, nhọn, tù...; Ðế thì đủ hình đủ dạng, đặc hay rỗng, eo hay thóp nhưng thường là gót rời, từ thấp đến cao. Hơn thế nữa, guốc mộc Việt đã hội nhập với thời trang thế giới, tham gia vào cuộc cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị trường nên mẫu mã phong phú, đẹp hơn, nhất là đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế"(7).
Ngày nay, tuy guốc không được sử dụng nhiều như xưa, nhưng đôi guốc vẫn còn tồn tại, cùng đồng hành với cư dân như một phần của lịch sử văn hóa dân tộc. Có thể nói, cùng với áo dài, nón lá, đôi guốc "đã tạo nên cái đẹp rất Việt của phái đẹp, cái đẹp của sự dịu dàng, duyên dáng, cái duyên thầm không chỉ trong cái nhìn, mà cả ở sự cảm nhận"(8).
-------------------------
(1) Vương Đằng (2014), "Phong tục miền Nam", NXB Văn hóa Thông tin, tr.358.
(2) Dẫn theo Bùi Quang Thắng (2018), "Nét cũ duyên xưa", NXB Lao động, tr.156.
(3) Bùi Quang Thắng, Sđd, tr.159-160.
(4) Vương Đằng, Sđd, tr.358-360.
(5) Vương Đằng, Sđd, tr.360.
(6) K.D (st), "Duyên thầm guốc mộc", Báo Tây Ninh, ngày 08.12.2010.
(7) K.D, Bđd.
(8) K.D, Bđd.