30/04/2009 - 11:18

Đánh chiếm sân bay Trà Nóc trong Chiến dịch Hồ Chí Minh

• Đại tá: PHẠM QUANG HIỆP
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội
(Nguyên tiểu đội trưởng thuộc c3, d4, e20 QK9)

Chúng tôi là chiến sĩ Hà Nội thuộc Tiểu đoàn  78, Trung đoàn 59, Bộ Tư lệnh Thủ đô, được bổ sung vào chiến trường Miền Tây Nam bộ, chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 20 Quân khu 9, từ năm 1974.

Trung tuần tháng 4 năm 1975, khi cả trung đoàn đang chiến đấu trong vùng địch hậu thuộc huyện Ô Môn (Cần Thơ) thì được lệnh rút về hậu cứ nhận nhiệm vụ mới. Khác với mọi lần, về vùng giải phóng là được nghỉ ngơi và sống trong bầu không khí chan hòa tình thương của bà con nơi đóng quân bên bờ kênh Sáu Kim, kênh Sáng Cụt, thuộc huyện Gò Quao, Rạch Giá. Lần này, vừa về đến cứ chúng tôi được tập trung học tập nghị quyết, chỉ thị của trên về thời cơ lịch sử “một ngày bằng 20 năm” tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử này, nhiệm vụ của Trung đoàn 20 là thọc sâu đánh chiếm sân bay Trà Nóc, Cần Thơ - căn cứ của Sư đoàn Không quân số 4 ngụy Sài Gòn. Sau khi được quán triệt nhiệm vụ, chúng tôi hăm hở bắt tay vào làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Mỗi người được nhận một cơ số đạn, lương thực lớn. Mỗi tiểu đội được nhận một chiếc xuồng ba lá làm phương tiện hành quân. Mừng hơn là đơn vị còn được bổ sung thêm một lực lượng chiến sĩ mới quê Thanh Hóa vừa từ Bắc vào.

Phút thảnh thơi bên khu để máy bay trực thăng UH-1 thu được của địch. Ảnh: Chiến sĩ Hà Nội thuộc d4, e20, QK9 tham gia đánh chiếm sân bay Trà Nóc trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 30-4-1975 (từ phải qua trái: Đào Duy Thiết, Lê Minh Quân, Bạch Việt, Nguyễn Văn Ngọ, Phạm Quang Hiệp).

Đêm 24 tháng 4 chúng tôi được lệnh xuất phát. Những chiếc xuồng ba lá lặng lẽ rời hậu cứ. Cứ thế đêm hành quân, gần sáng tới điểm dừng giấu xuồng, lên bờ triển khai trận địa, chờ địch vào gần mới nổ súng. Càng vào sâu căn cứ, đồn bốt địch càng dày đặc. Có đêm phải kéo, đẩy xuồng trên cạn, cắt hướng mà đi bỏ qua các đồn bốt nhỏ, đánh thẳng vào các mục tiêu chính. Pháo sáng từ các đồn bốt địch và đèn pha công suất lớn từ máy bay trực thăng vũ trang của chúng soi rọi, lùng sục bắn phá suốt đêm. Ban ngày, máy bay trinh sát L19 quần đảo liên tục, chỉ điểm cho pháo ở Giồng Riềng, Ô Môn, Vị Thanh, Hỏa Lựu bắn vào đội hình ta, bộ binh địch từ các căn cứ nống ra đánh chặn.

Đêm 28 tháng 4, chúng tôi được lệnh bỏ xuồng hành quân bộ theo trinh sát dẫn đường, bó bòng vượt kênh và dầm mình xuống nước tránh đèn pha trên máy bay trực thăng địch rọi đến. Gần sáng ngày 29, chúng tôi đến lộ Vòng Cung và triển khai đội hình chiến đấu, ngay sau đó đã diễn ra trận đánh hết sức ác liệt. Địch dùng pháo binh bắn các loại đạn pháo khoan, pháo chụp và máy bay ném bom dữ dội vào trận địa ta, máy bay trực thăng vũ trang UH- 1 bay thấp quần đảo phóng rốc két và bắn đại liên xuống. Xe bọc thép M113 dàn hàng ngang bắn ĐKZ và 12,7 1y yểm hộ cho bộ binh địch đánh vào. Mặt đất bom đạn cày xới, cây bị mảnh pháo, đạn nhọn phạt gãy, đổ ngổn ngang, nhà dân cháy ngùn ngụt, mùi thuốc súng nồng nặc. Từ những công sự chiến đấu chúng tôi bình tĩnh điểm xạ từng loạt AK chính xác vào những tốp địch ở cự ly gần, sử dụng các loại súng hỏa lực như B40, B41 , cối 60 ly và đại liên M60, súng phóng lựu M79 thu được của địch, đánh bật nhiều đợt phản kích của chúng. Sẩm tối địch rút chạy, chúng tôi lên khỏi hầm, tranh thủ nấu cơm ăn và đợi lệnh hành quân tiếp. Khoảng 23 giờ đêm, cả Tiểu đoàn 4 của chúng tôi tập trung đội hình trên một thửa ruộng ven lộ. Ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định cho Đại đội 2 do bị thương vong nhiều cùng số thương binh của các đơn vị rút về hậu cứ. Lực lượng còn lại tiếp tục hành quân chiến đấu. Trước giờ xuất kích, Tiểu đoàn trưởng Ba Thích, quê Hà Nội, chân bị thương phải chống gậy, nhưng vẫn đứng vững trước hàng quân, nói dõng dạc: “Đêm nay là chặng hành quân cuối cùng, chúng ta sẽ tiếp cận và đánh chiếm Sân bay Trà Nóc, đây chính là quyết chiến điểm của cả Trung đoàn 20 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử này”. Tất cả lên đường! Như được tiếp thêm sức mạnh từ lời khích lệ của tiểu đoàn trưởng, chúng tôi xốc lại bòng và súng đạn tiến bước. Càng vào gần khu vực sân bay, càng ác liệt, máy bay trực thăng địch quần đảo rọi đèn, rồi phóng rốc két, bắn những loạt đại liên dài vào đội hình đơn vị, hòng ngăn chặn bước tiến của ta. Pháo sáng, pháo sát thương, pháo chụp nổ chói tai trên đầu, pháo khoan, pháo phát quang rít gió nổ dưới mặt kênh, mặt ruộng tức cả ngực. Chúng tôi vượt qua con rạch ở phía Tây Bắc sân bay Trà Nóc gần đầu đường băng cất, hạ cánh của máy bay khi trời đang chang vạng và khẩn trương đào hầm chiến đấu.

Rạng sáng ngày 30 tháng 4, địch bắn pháo cấp tập vào đội hình ta. Tiếng động cơ máy bay gầm rú điên loạn. Chúng cho máy bay A37 và AĐ6 ném bom liên tục, dùng trực thăng vũ trang và xe bọc thép lội nước yểm trợ bộ binh đánh chặn phía trước, phía sau. Hỏa lực của trên và cối 120 ly của Trung đoàn tập trung bắn chế áp vào sân bay, các loại súng của đơn vị tôi bắn quyết liệt vào bọn địch, tiêu diệt nhiều tên, đẩy chúng ra xa và tháo chạy tan tác. Trong sân bay, máy bay địch hoảng loạn cất cánh liên tục.

Gần trưa, địch kháng cự yếu ớt, tiếng súng và tiếng máy bay thưa dần rồi im ắng lạ thường. Bỗng phía dưới kênh tiếng xuồng máy mỗi lúc một gần, xen lẫn tiếng người ồn ả và những tiếng hô vang “Dương Văn Minh đầu hàng trên la dô rồi! Giải phóng rồi! Hòa bình rồi”. Trên chiếc xuồng đi đầu, một người dân đứng thẳng, tay huơ huơ một mảnh giấy và nói: “Các chú giải phóng ơi, thơ xin hàng của bọn lính Sư đoàn 21 gởi mấy chú đây”. Chúng tôi phân công nhau cảnh giới và cử người xuống xem thì quả đúng vậy. Niềm vui đến quá bất ngờ, xót thương cho những đồng đội vừa hy sinh cách đó ít phút. Trong đó có Nguyễn Văn Thiều, quê Hà Tây ở cùng phân đội. Chúng tôi được lệnh tiến vào chiếm lĩnh sân bay Trà Nóc. Vượt qua hàng chục lớp rào thép gai vừa bị phá, cảnh tượng trong sân bay là: súng đạn các loại và quần áo, mũ sắt, mũ phi công ngụy vứt la liệt. Trên đường băng mấy chiếc A37 nắp buồng lái mở toang nằm ngổn ngang, trong các khu để máy bay còn rất nhiều, nhất là máy bay ném bom A37, trực thăng vũ trang UH-1, trực thăng cần cẩu CH-47 và máy bay trinh sát L19, có 2 chiếc F5, vài chiếc AD6. Trên khắp các con đường trong sân bay, xe thiết giáp, xe GMC, xe JEEP, xe DOT và cả xe máy để lộn xộn. Ở khu nhà làm việc bên trái con đường từ cổng chính vào, khoảng trên 300 tên lính ngụy chủ yếu là thợ máy, lính văn phòng và một số sĩ quan đã tập trung trình diện quân giải phóng. Trong đó có 2 tên đại tá, riêng tên chuẩn tướng, Tư lệnh sư đoàn đã bỏ chạy bằng máy bay lúc sáng, bọn giặc lái chắc sợ bị trả thù vì có nhiều nợ máu, gần như trốn chạy hết. Đồng chí Năm Học, Trung đoàn trưởng lệnh cho phân đội vệ binh do đồng chí Thụ phụ trách, tiếp nhận sự đầu hàng của số lính này. Họ tỏ ý ăn năn và sốt sắng chỉ dẫn cho các cán bộ chỉ huy của Trung đoàn chúng tôi đến các nơi trọng yếu trong sân bay như khu chỉ huy bay, khu để các loại máy bay, khu ra đa, kho vũ khí, khí tài, kho xăng, kho bom... Các đơn vị trong toàn Trung đoàn nhanh chóng chiếm lĩnh và canh giữ những mục tiêu quan trọng, cảnh giác đề phòng tàn quân địch còn sót manh động tập kích hoặc phá hoại.

Đến khoảng 20 giờ, Tiểu đoàn tôi được lệnh giao lại cho đơn vị bạn chốt giữ khu ra đa trong sân bay, ra bảo vệ nhà máy điện Trà Nóc. Hành quân qua phố chợ Trà Nóc, các nhà đóng cửa, đèn đường sáng nhưng không có một bóng người. Thấy vậy, tôi và một số anh em ở tốp đi đầu Tiểu đoàn vừa đi vừa nói to: “Bà con ơi giải phóng rồi, hãy may cờ cách mạng treo lên”. Cánh cửa các nhà đều bật mở, nhiều gia đình đã chuẩn bị sẵn cờ đỏ sao vàng, cờ giải phóng lập tức treo ngay. Chỉ trong chốc lát phố phường rợp bóng cờ, bà con dân phố đổ xô ra bên đường vẫy tay tươi cười đón chào đoàn quân. Mọi nỗi sợ bị “tắm máu”, bị Việt cộng trả thù tiêu tan hết, nhiều người còn chạy ra nắm tay, cho quà chúng tôi.

Đêm 30 tháng 4 cả đơn vị gần như không ai ngủ. Trên những khuôn mặt hốc hác vì thiếu ngủ rạng rỡ niềm vui khó tả, nhưng súng đạn vẫn không rời tay. Đây đó chốc chốc vút lên những loạt đạn lửa như hoa đăng chào mừng ngày đại thắng.

Chia sẻ bài viết