Đàn là một trong những nhạc cụ chủ yếu trong âm nhạc. Riêng ở nước ta, tiếng đàn góp mặt vào đời sống âm nhạc từ rất lâu đời. Người miền Nam thường gọi là đờn; người miền Trung, miền Bắc gọi là đàn. Một quan niệm khác cho rằng: những loại đàn do dân tộc ta sáng tạo hay cải biên thì thường được gọi là đờn còn những loại đàn du nhập từ ngoại quốc gọi là đàn theo ngôn ngữ chung. Trong bài viết này, chúng tôi thống nhất cách ghi: đàn trong trường hợp gọi chung và đờn nếu có tên khu biệt đi kèm: đờn cò, đờn gáo...
Trong văn hóa dân gian của người Việt có không ít tác phẩm nói đến cây đàn. Chẳng hạn như câu chuyện “Thạch Sanh” với tiếng đàn ai oán:
Đàn kêu tích tịch, tình tang
Ai mang công chúa dưới hang trở về
 |
Một số nhạc cụ trong ban nhạc Đờn ca tài tử Nam bộ. Từ trái sang: đờn tranh (tam thập lục), đờn cò (nhị), đờn kìm (nguyệt), đờn ghi ta phím lõm. |
Người xưa quan niệm cái tài hoa của con người quy phạm trong “tứ nghệ”: cầm, kỳ, thi, họa; trong đó yếu tố đàn - nhạc được đưa lên hàng đầu. Tiếng đàn làm quên đi cái hanh khô của nắng ban trưa, cái oi nồng của mùi phèn đất. Nhưng hơn hết, tiếng đàn đã góp nhặt trong tâm tư người Việt, phản ánh nỗi lòng. Kho tàng nhạc cụ của dân tộc ta rất phong phú, có thể chia làm ba bộ là bộ gõ (trống, chũm chọe...), bộ dây (đờn cò, đờn tranh...) và bộ hơi (tiêu, sáo...). Người Việt từ xưa đến nay nhìn chung đời sống giải trí đa dạng, âm nhạc cũng góp phần làm đẹp thêm cho tâm hồn con người. Lời ca tiếng đàn có mặt nơi đồng sâu, sông vắng, chứ không chỉ ngân vang nơi gác tía, lầu son.
Hồi nhỏ tôi bị mê mẩn tiếng đờn cò của ông Tám nhà bên, cứ chiều chiều ông lại ngồi trên bộ ván trước nhà kéo mấy bản Nam Ai, mấy cung thương cung oán nghe buồn não ruột. Ông thường dạy tôi phải nói cho đúng chữ: “Con phải nói là đờn cò chớ không phải đàn cò. Đờn là tiếng lòng của ông cha để lại! Mấy cung hò, xự, xang... là của người Việt mình! Còn đàn là để chỉ mấy nhạc cụ của phương Tây”. Ông nhấn nhá từng tiếng một. Cũng vậy, những nhạc khúc do dàn “đờn dân tộc” chủ công thì không ai gọi bài hát mà phải gọi bài ca, người trình bày là người ca diễn. Ông Tám thường hay ngân nga:
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng
bậu thương
Chiều nay qua phản bạn hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông
Thế mới biết, đàn được dân gian gửi gắm bao tâm tình, nỗi niềm. Tiếng đàn vào buổi chiều tà khiến lòng người lắng lòng lại:
Đờn tre não nuột du dương
Dưới ao nhái hát, bên đường ve ngân
Người “sành” nghe đàn có thể nhận biết được nỗi lòng của người đang gảy:
Tiếng đàn khắc khoải kêu thương
Bậu tham ruộng cả, bậu vương bạc vàng
Tiếng đàn lắm khi có sức mạnh thần kỳ, chẳng những làm say lòng nguời mà đến chim muông hoa lá cũng say sưa thể hiện tài hoa của người đàn:
Đàn ai khéo gảy tính tình,
Một đàn con cá lặn ghềnh nó nghe
Đầu ghềnh có con ba ba
Kẻ kêu con tranh người kêu con rùa
Người chơi nhạc, đặc biệt là âm nhạc dân tộc rất quý cây đàn, một sợi dây đàn bị đứt xem như là điều không may. Ông bà ở Nam bộ ngày xưa, nhà ai có chơi đờn cò, đờn gáo... đều dành một chỗ cao ráo, trang trọng để cất giữ. Bởi vậy:
Đờn cò ai nỡ đứt dây
Ngẫm mình vô tội ai gây oán thù
Cây đàn còn được dùng để ướm lời và kết duyên, làm trọn vẹn mối tình đôi lứa. Lời thề nguyền của cô gái khiến người nghe không khỏi “ngùi ngùi”:
Đàn tranh sánh với đàn cầm
Một đây một đấy đáng trăm lạng vàng
Còn đang tạc đá ghi vàng
Ngô đồng nỡ bỏ phượng hoàng ngẩn ngơ
Mấy năm em cũng xin chờ
Cầm bằng tóc bạc như tơ cũng đành
Hình ảnh so sánh “đàn tranh” với “đàn cầm” tương xứng nhưng cũng thật ý vị. Dẫu cho mỗi loại đàn có những thanh âm khác nhau nhưng đều làm mê mẩn lòng người và đặc biệt là hai loại đàn này nếu song tấu thì rất ăn nhịp nhau.
Không chỉ thắm nồng trong tình cảm riêng tư, lắm khi người đang yêu còn dùng hình ảnh cây đàn để nói lên tình cảm mà họ dành cho nhau:
Cầm đàn mà gảy qua sông
Đàn em em gảy não nùng như ru
Đàn anh dây thẳng dây chùng
Đàn em em gảy năm cung rõ ràng
Chàng trai này có vẻ không thiện nghệ ngón đàn nên mới “dây thẳng dây chùng”, bởi dây đàn lúc nào cũng phải căng thẳng đủ mức thì mới đàn ra hồn phách được. Cũng thế mà có câu thành ngữ “Căng như dây đàn” đấy thôi! “Năm cung rõ ràng” chứng tỏ độ “chuyên” trong tài gảy đàn của cô gái. Năm cung trong âm nhạc dân tộc hay còn gọi là ngũ âm gồm các bậc: hò, xự, xang, xê, cống. Ngoài ra, cũng có một số âm phụ khác: tồn, tang, lịu, xệ, phạng, cộng, u, y, ý... giúp bài ca thêm phần uyển chuyển. Ban nhạc trong đờn ca tài tử Nam bộ gồm có các nhạc cụ chính: đờn kìm, đờn tranh, đờn cò, đờn bầu, đàn ghi ta phím lõm... Trong đó bộ “tứ tuyệt” phải kể đến là “cò, kìm, tranh, bầu”. Nhớ nhạc ngũ cung, tôi nhớ hoài câu ca dao mà tôi biết được qua một người phụ nữ hát ru cháu ở miệt Bến Bàu, Bạc Liêu. Câu hát như vầy:
í dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi
Khó đi mượn chén ăn cơm
Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi
Bậu nghe qua kéo đờn cò
Đứt dây... ứ hự... quên hò, xự, xang
Tuy phần trên của bài ca dao này không mới nhưng hai câu kết này rất lạ và thú vị. Người đàn biết có người đang lắng nghe những thanh âm phát ra từ cây đờn cò của mình thì như là “con tằm bối rối vì tơ”, đến nỗi quên hết thang thức. Hai chữ “ứ hự” thật đậm đà Nam bộ làm sao, mang cái tình sâu của làng quê sông nước. Về đờn cò, còn gọi là đờn nhị vì đờn có hai dây. Đờn cò là gọi theo cách tượng hình. Nhìn bề ngoài, đờn giống như một con cò: trục dây có đầu quặp hẳn xuống giống như mỏ cò, cần đờn giống như cổ cò, hộp đờn giống như thân cò và đặc biệt là tiếng đờn thánh thót như tiếng cò kêu đêm.
Ngày xưa, những người phụ nữ lớn tuổi không quên nhắc nhở những cô gái mới lớn: không bao giờ được nghe đờn bầu!
Đờn bầu ai gảy nấy nghe
Làm thân con gái chớ nghe đờn bầu
Đờn bầu là loại đờn có một dây duy nhất nên còn gọi là độc huyền cầm. Trong kho tàng âm nhạc người Việt, đờn bầu được coi là nhạc cụ độc đáo và có tiếng kêu mê hoặc lòng người. Bởi thế các bà mẹ xưa rất sợ con mình nghe chàng trai nào thánh thót giọt đờn bầu. Thanh âm phát ra, người nghe cảm nhận như từng giọt nhẹ nhàng rơi vào lòng người “lắng như giọt đờn bầu”. Tiếng đàn du dương trầm lắng, khoan nhặt thiết tha, khiến cho ai nghe một lần đã vương, đã nhớ!
Dường như, đàn chỉ dùng cho người thanh cao, nho nhã, người có tấm lòng rộng mở. Người nghe cũng đòi hỏi một khả năng cảm thụ nhất định. Nếu không hiểu biết gì mà cứ ngồi nghe để “chờ thời” thì được xem là “đàn gảy tai trâu”.
Ngày nay, đời sống âm nhạc của người Việt chúng ta ngày càng phong phú. Mỗi vùng mỗi sắc, mỗi chốn mỗi hương. Đó là thành quả của sự sáng tạo và bảo lưu các giá trị truyền thống của dân tộc, góp phần làm đẹp thêm tâm hồn con người Việt Nam. Âm nhạc Việt giờ đây còn có sự góp mặt của các nhạc cụ Tây phương. Tuy nhiên, từng tiếng đàn, lời ca ngọt ngào từ đất quê đã gieo rắc vào lòng người bao tình cảm thiết tha. Tiếng đàn dung dưỡng tâm hồn ta, khiến ta thêm gắn bó với quê hương xứ sở. Buổi chiều tà bên dòng kinh Bà Từ nước trôi lờ đờ những bông bần mới rụng, nồng nặc mùi phèn của ao tôm trước cửa, nghe ông Tám kéo đờn cò mấy khúc Nam ai thì “ngàn năm hồ dễ mấy ai quên”!...
Bài, ảnh: Đặng Duy Khôi