18/03/2025 - 22:53

Cảm hứng từ hào khí khởi nghĩa Hai Bà Trưng 

Mùa xuân năm Ất Tỵ 2025, cả nước kỷ niệm 1985 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Hào khí cuộc khởi nghĩa lan tỏa lịch sử, văn hóa nước nhà trong đời sống hiện đại và với bạn bè quốc tế.

Hào khí nữ vương trong văn học nghệ thuật

Đầu tháng 3-2025, trong cuộc giao lưu ra mắt tiểu thuyết “Bố con cá gai” tại Hà Nội, nhà văn Hàn Quốc Cho Chang-in nói rằng càng tìm hiểu sâu về Việt Nam, ông càng trân trọng những giá trị lịch sử, văn hóa của người Việt. Trong đó, những câu chuyện về khởi nghĩa Hai Bà Trưng để lại ấn tượng mạnh mẽ, khơi gợi nguồn cảm hứng đặc biệt cho ông. Trò chuyện với chúng tôi tại Liên hoan Thơ quốc tế Thượng Hải vào cuối năm 2023, một nhà thơ Ba Lan cho biết rất ấn tượng về cuộc khởi nghĩa anh hùng của Hai Bà Trưng. Hai Bà Trưng tượng trưng cho sự bình đẳng giới từ xưa của người Việt.

Sân khấu hóa hình tượng Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở đền Đồng Nhân.

Từ thuở ấu thơ, tôi hay nghe bà ngoại và má ru em bằng nhiều bài ca dao, dân ca, truyện thơ Nôm. Trong đó có bài diễn ca về Hai Bà Trưng: "Bà Trưng quê ở Châu Phong/ Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân/ Ngàn Tây nổi áng phong trần/ Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành/ Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta…”. Khi được đi học, tôi mới biết đây là đoạn văn vần trong tác phẩm “Đại Nam quốc sử diễn ca” do vua Tự Đức nhà Nguyễn lệnh cho ông Lê Ngô Cát viết bằng chữ Nôm, về sau Phạm Đình Toái biên soạn, Phan Đình Thực hiệu chỉnh và Đặng Huy Trứ in ấn. Bản chữ quốc ngữ đầu tiên của “Đại Nam quốc sử diễn ca” do Trương Vĩnh Ký diễn âm xuất hiện từ năm 1870.

Tôi lớn lên khi đất nước hòa bình thống nhất và được xem nhiều vở cải lương. “Tiếng trống Mê Linh” là một trong những vở cải lương hay nhất và tôi vẫn khắc ghi cảnh Bà Trưng Trắc xuất hiện trên sân khấu vung gươm cất lời hiệu triệu: “Hỡi đồng bào trăm họ/ Giặc Đông Hán đang xéo giày đất nước/ Nhục nào hơn nhục nô lệ ngoại bang/ Thà chết mà đứng thẳng/ Không cam chịu sống quỳ/ Đất nước Nam cẩm tú/ Người dân Nam anh hùng/ Trước đền thờ Quốc Tổ/ Thề hy sinh giết giặc cứu non sông/ Xin thề!”. Vở tuồng chấm dứt khi quân xâm lược bị quân ta đánh đuổi và Bà Trưng Trắc tuyên bố: “Hãy nổi trống đồng, cho con cháu ngàn sau tiếp nối hồn thiêng giống nòi bất khuất... Đất nước Nam độc lập muôn đời!”.

Nguyên tác vở tuồng “Tiếng trống Mê Linh” dựa trên kịch bản ca kịch 5 màn mang tên “Trưng Vương” của soạn giả Việt Dung soạn vào khoảng những năm 1960, được xuất bản vào năm 1972. Năm 1975, đoàn hát Thanh Minh tái lập, soạn giả Vĩnh Điền chuyển thể vở ca kịch sang cải lương và đặt tên mới là “Tiếng trống Mê Linh”, hợp tác với soạn giả Viễn Châu và Nguyễn Phương. Đạo diễn Ngô Y Linh dàn dựng, công diễn lần đầu vào mùa xuân năm 1977, với sự góp mặt nhiều nghệ sĩ tài danh như Thanh Nga, Hùng Minh, Bích Sơn, Thanh Sang, Bảo Quốc...

Linh thiêng những ngôi đền thờ Hai Bà Trưng

Tương truyền, Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị có quê nội ở làng Hạ Lôi, nay thuộc huyện Mê Linh còn quê ngoại ở làng Nam Nguyễn, nay thuộc huyện Ba Vì, TP Hà Nội. Chồng của Bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc tướng ở Chu Diên, cùng chí hướng với Lạc tướng các địa phương liên kết chống lại chính sách cai trị của Đông Hán. Khoảng năm 39-40, Thái thú Tô Định đã giết Thi Sách nhằm trấn áp sự phản kháng người Việt. Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã “Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân”.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng khởi đầu mùa xuân tháng 3 năm Canh Tý - 40, nhận được sự hưởng ứng của quân dân khắp các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Thái thú Tô Định thua bỏ chạy. Đất nước độc lập. Bà Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương, hay còn gọi là Trưng Vương, cùng em Trưng Nhị cai quản Lĩnh Nam, chọn Mê Linh đóng đô.

Nhà Hán lập tức phong Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó tướng, chỉ huy khoảng 2 vạn quân chia làm 2 cánh thủy, bộ sang xâm lược. Trước sức mạnh áp đảo và kinh nghiệm chinh chiến dày dặn của đối phương, Hai Bà quyết định lui quân về trấn giữ ở Cẩm Khê, nay thuộc huyện Thạch Thất, Hà Nội. Đến năm Quý Mão - 43, vì bị quân nhà Hán truy đuổi, Hai Bà Trưng giữ tròn khí tiết, đã gieo mình xuống sông Hát tự vẫn.

Từ lâu trên cả nước đã có hơn 100 địa điểm thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh thuộc quyền. Ngoài ra, tại tỉnh Hồ Nam bên Trung Quốc cũng có miếu thờ Trưng Vương, do hai vị quan Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm đi sứ phát hiện. Sau khi Hai Bà Trưng tuẫn tiết, một số tướng lĩnh bị giặc bắt sang đất Hán đã bí mật lập đền thờ Hai Bà. 

Ở nước ta, Hà Nội tập trung nhiều nơi thờ phụng Hai Bà Trưng, lớn nhất là 3 ngôi đền ở Đồng Nhân, Hát Môn - Phúc Thọ và Hạ Lôi - Mê Linh.

Đền Hát Môn là Di tích Quốc gia đặc biệt. Hằng năm, theo âm lịch, Lễ hội Đền Hát Môn được tổ chức vào các ngày: mùng 6 tháng 3, 4 tháng 9 và ngày 24 tháng Chạp. Trong đó, vào mùng 6 tháng 3, lễ hội diễn ra rất hoành tráng với nhiều phong tục độc đáo.

Tương truyền, sau khi Hai Bà Trưng nhảy xuống sông Hát tự vẫn và hóa thành tảng đá trắng trôi về bến bãi Đồng Nhân của sông Hồng. Nhân dân đã dùng vải đỏ rước tượng Hai Bà về thờ phụng. Năm 1142, vua Lý Anh Tông truyền lập đền thờ Hai Bà Trưng ngay tại bờ sông. Đến năm 1819, do bến sông sạt lở, đền thờ Hai Bà Trưng được chuyển vào khu Võ Miếu, thôn Hương Viên, huyện Thọ Xương. Hiện nay tại đây hình thành Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Đền - Chùa - Đình Hai Bà Trưng, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng. Lễ hội Đền Đồng Nhân tổ chức hằng năm từ ngày mùng 4 đến 7 tháng 2 âm lịch. Mùa xuân năm Ất Tỵ 2025, tại Đền Đồng Nhân đã diễn ra long trọng Lễ kỷ niệm 1985 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và công bố Quyết định ghi danh Lễ hội Đền Hai Bà Trưng vào danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia. 

Trước đó, tại đền thờ Hai Bà Trưng ở quê hương làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh cũng đã diễn ra Lễ rước Vua Bà và kỷ niệm 1985 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khai hội đền trong suốt 3 ngày xuân.

PHAN TẤN HÙNG

Chia sẻ bài viết