Làng Thới Sơn (thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang) ngày nay là một trong những nơi còn lưu lại khá nhiều di tích liên quan đến công cuộc hành đạo và khai khẩn của tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương. Nói đến Thới Sơn, người ta không chỉ nghĩ đến chốn hành hương của riêng của tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương mà còn là điểm đến đầy thú vị của khách du lịch gần xa, nhứt là giới nghiên cứu văn hóa - sử học.
Có thể thấy rằng, Thới Sơn là cửa ngõ vào vùng Thất Sơn, cũng là tiền đồn án ngữ vùng biên cương nầy. Cả xưa và nay, Thới Sơn đều có một vị trí chiến lược trong nhiều lĩnh vực: quân sự, kinh tế, văn hóa
Để đến được Thới Sơn, đi theo Quốc lộ 91 đến địa phận thị trấn Nhà Bàng tiếp tục rẽ sang đường tỉnh 948 chưa đầy 1 km sẽ gặp cổng đình Thới Sơn cao to uy nghiêm. Qua khỏi cổng và tiếp tục đi theo đường nầy sẽ lần lượt đến được các di tích như chùa Thới Sơn, đình Thới Sơn, chùa Phước Điền.
 |
Chùa Thới Sơn. Ảnh: baoangiang.com.vn |
Thới Sơn xưa bao gồm hai làng Hưng Thới và Xuân Sơn (mà nay gộp thành Thới Sơn) do Đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên chủ trương cho tín đồ khai phá để canh tác và tu tập. Hai vị tiền bối có công lao lớn nhứt trong buổi đầu là Tăng Chủ tên thật Bùi Văn Thân và ông Đình Tây tên thật Bùi Văn Tây. Có thuyết nói ông Tăng Chủ là bác ông Đình Tây, nhưng cũng có người cho rằng hai ông là anh em họ. Dầu sao, đối với người đời nay, cả hai vị đều được kính trọng vì là những bậc đại đệ tử của Phật Thầy, đã có công dẫn dắt tín đồ khai khẩn và hình thành làng xóm.
Điểm qua một số di tích. Đầu tiên là chùa Phước Điền. Đây là nơi Đức Phật Thầy cho đệ tử khai phá và lập những cơ sở tôn giáo đầu tiên gọi là "Trại ruộng". Bề mặt danh từ "Trại ruộng" để che mắt thực dân dòm ngó, nhưng thực tế đây là một cơ sở tôn giáo thuở sơ khai của Bửu Sơn Kỳ Hương. Ở nơi đây, sau khi tín đồ khai phá vùng đất hoang vu, họ bắt tay vào cày cấy, sản xuất. Như quan niệm của Đức Phật Thầy từ buổi đầu lập đạo thì tu là phải đền được Tứ Ân gồm: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại. Thế nên tu theo Bửu Sơn Kỳ Hương không phải là ngồi chờ đắc đạo mà phải làm lụng phục vụ cuộc sống, không phải "xuất thế" mà là "nhập thế". Theo nếp sống và sinh hoạt định ra từ buổi đầu, thì ban ngày tín đồ cùng nhau trồng trọt, cày cấy, đến tối sẽ lo tu tập. Nhưng vậy rõ ràng đây là một mô hình mới và độc đáo, vừa có thể tu hành nhưng cũng không vì lợi ích bản thân mà quên đi cộng đồng xã hội. Chủ trương đó của Phật Thầy dẫu đã qua gần hai trăm năm, trại ruộng xưa nay đã thành chùa chiền, làng mạc, nhưng tư tưởng buổi đầu vẫn được tín đồ kế tục và phát huy.
Ngày nay khuôn viên chùa Phước Điền có diện tích rộng lớn, tuy nhiên quy mô chánh điện lại nhỏ. Đó là bởi vì chủ trương Phật Thầy là giản dị hóa cách thức hành đạo, không xây chùa am lớn vì Phật cốt ở tâm chứ không phải xây chùa cao, đắp tượng lớn. Tại chùa Phước Điền ngày nay vẫn còn hai câu đối tương truyền là của Phật Thầy. Câu đối ở cổng chùa: "Nhứt trần bất nhiễm Bổ Đề địa / Vạn thiện đồng quy Bát Nhã môn" và tại Chánh điện: "Phước bảo thiền quang thanh tịnh vô vi thường phổ chiếu / Điền kinh công đức viên dung bát nhã biến thông truyền". Đặc biệt, hiện trong khuôn viên chùa còn có một khoảng đất rộng được dọn dẹp sạch sẽ, rào lại tươm tất, đó chính là nơi chôn cất hai con trâu của Phật Thầy. Nhân dân kính trọng đôi trâu nầy như người hữu công với làng xóm là vì lúc sinh thời Phật Thầy đã nuôi đôi trâu và khi khai khẩn Thới Sơn thì đôi trâu đã cùng giúp đỡ bà con chuyên chở hàng hóa. Chính vì thế khi đôi trâu chết, nhân dân trong vùng đã chôn bên cạnh chùa và gọi hai "ông" trâu là ông Sấm, ông Sét. Chỉ là những con vật nhưng nếu có công thì vẫn được đồng bào ta tôn kính như con người, thế cũng đủ biết người miền Tây trọng tình nghĩa thế nào.
Gần đó là Chùa Thới Sơn. Đây cũng là nơi được thành lập sớm. Trước kia được dùng làm chỗ tu hành, thờ phượng theo nghi thức đơn giản của Phật Thầy. Ngày nay tín đồ xây dựng lại chánh điện và cổng chùa với quy mô lớn. Mặc dù ít nhiều thay đổi so với buổi đầu, song bên trong chùa vẫn còn y di giáo của Phật Thầy với tấm Trần Điều trên các trang thờ phượng. Ngoài ngôi Tam bảo, chùa còn thờ các ngôi như những chùa khác như Hộ pháp, Năm non bảy núi, Chư quan cựu thần, Cửu huyền thất tổ, Đức Phật Thầy, Thập nhị Hiền thủ (mười hai đại đệ tử của Phật Thầy)
Hàng năm, cứ đến những dịp Tết, ngày rằm, các ngày lễ đạo thì tín đồ lại tề tựu về đây để cùng nhắc nhở nhau về công lao của các bậc tiền bối.
Đình Thới Sơn là cơ sở được thành lập trễ nhứt. Sau một thời gian canh tác, vùng Xuân Sơn và Hưng Thới đã được trù mật, ông Tăng Chủ và Đình Tây bắt đầu chuyển sang trọng việc chăm lo tu tập cho tín đồ. Xét thấy thôn Hưng Thới đã có chùa nhưng thôn Xuân Sơn thì chưa nên hai vị lập chùa Xuân Sơn. Chùa lập năm 1859, ban đầu thờ Phật, sau đổi lại thành Đình thờ thần, nay chính là Đình Thới Sơn. Ban đầu đình được xây cất bằng cây rừng, mái tranh, vách lá, nền đất. Sau bao nhiêu lần tín đồ trùng tu cũng chính là bấy nhiêu lần quân giặc đốt phá. Mãi đến những năm 1970 - 1980, đình mới được xây dựng lại khang trang. Kiến trúc của đình cũng theo kiểu các đình miếu ĐBSCL với mái cổ lầu, nóc lợp ngói, vách tường và nền xây cao ráo, cột trụ bằng xi măng. Nội thất đình trang trí hoa văn nhiều sắc màu, các khánh thờ chạm trổ công phu, sắc nét. Giữa thờ Thành hoàng Bổn cảnh như những đình khác, phía sau thờ Đức Phật Thầy và thập nhị Hiền thủ. Trước đình là cổng tam quan có mái che cổ kính, bên cạnh là di tích cổ thụ được rào lại cẩn thận bởi vì tương truyền ngày xưa Đức Phật Thầy thường ngồi tịnh nơi gốc cây nầy.
Đó là ba di tích còn lại của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tại Thới Sơn. Mặc dù đã qua gần hai thế kỷ nhưng những di tích nầy vẫn là nơi đầy kỳ bí mà các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu, đặc biệt mô hình "Trại ruộng" độc đáo thuở trước. Về phía những tín đồ, họ vẫn tiếp tục trùng tu cơ sở và không ngớt hương khói đối với bao công lao của người xưa. Bên cạnh những di tích đó còn có núi Két tên chữ là Anh Vũ Sơn cũng mang nhiều dấu ấn của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và là điểm đến hấp dẫn cho khách du lịch gần xa.
VĨNH THÔNG