25/01/2009 - 09:55

Tạo sức bật cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Nghị quyết Trung ương 7, khóa X, một lần nữa, khẳng định: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội và cả những thách thức tác động đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam. Làm thế nào để đủ sức vượt qua thách thức và phát huy được cơ hội để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân, xây dựng nông thôn mới, phát triển nền nông nghiệp hiện đại, bền vững là một câu hỏi bức thiết. Phóng viên Báo Cần Thơ ghi nhận ý kiến của các nhà khoa học tâm huyết đã và đang gắn bó cuộc đời, sự nghiệp của mình với nông nghiệp, nông dân, nông thôn vùng châu thổ sông Cửu Long.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật NGUYÊN VIỆN TRƯỞNG VIỆN LÚA ĐBSCL:

Đất sản xuất - nền tảng để đầu tư, phát triển, hiện đại hóa nông nghiệp

 

Để nâng cao đời sống nông dân, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, theo tôi cần phải giải quyết nhiều vấn đề. Trong đó, có 4 vấn đề chính mà Nhà nước cần quan tâm, chú trọng đầu tư, thực hiện.

Thứ nhất, cần qui hoạch và bảo vệ vững chắc đất phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vấn đề bức xúc hiện nay của nông nghiệp, nông dân, nông thôn là diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Ở nhiều địa phương, đất nông nghiệp bị thu hồi để phục vụ cho các qui hoạch xây dựng khu công nghiệp, làm sân golf... khiến nông dân không có đất để sản xuất, phải chuyển nghề hoặc di cư vào thành thị. Cuộc sống của họ càng bấp bênh, không ổn định. Nghị quyết Trung ương 7 nêu rõ: “Có chính sách giải quyết tốt vấn đề đất ở, nhà ở, việc làm cho người bị thu hồi đất; có qui hoạch và cơ chế bảo vệ vững chắc đất trồng lúa”. Đây là vấn đề rất quan trọng, cần được ưu tiên thực hiện, vì có bảo vệ vững chắc đất trồng lúa thì mới có cơ sở đầu tư, phát triển, hiện đại hóa nông nghiệp được... Bảo vệ diện tích đất trồng lúa của nông dân cần sự kết hợp của 2 phía: ý thức của nông dân và cơ chế quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải qui hoạch cụ thể đâu là đất sản xuất nông nghiệp, đâu là đất phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ và xử lý nghiêm những trường hợp làm sai qui hoạch. Đồng thời, có những chính sách căn cơ để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn đổi mới, phát triển; “giữ chân” nông dân với mảnh đất của mình.

Thứ hai, giúp nông dân cải thiện đời sống qua mô hình “chuyên canh trong vườn đa canh”. Tình trạng nông dân trồng chuyên canh loại cây gì thì chỉ biết cây đó khiến hiệu quả thu được sau mùa vụ chưa thực sự tối ưu. Vì vậy, nên hướng dẫn, khuyến khích nông dân làm theo mô hình “chuyên canh trong vườn đa canh”. Ví dụ, bên cạnh khu vực chuyên canh lúa hoặc chuyên canh một loại cây ăn trái nào đó, nông dân có thể dành riêng một ít đất để trồng thêm ít rau củ, mấy bụi chuối, gốc đu đủ, thả vài con gà... để đa dạng hóa thực phẩm cho bữa ăn gia đình. Đây là mô hình vừa thân thiện môi trường, vừa hiệu quả cao. Đa canh để phục vụ cho gia đình và thị trường gần, chuyên canh thì phục vụ xuất khẩu.

Thứ ba là đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp. Cơ giới hóa, hiện đại hóa sẽ tiết kiệm được sức lao động, thời gian và nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, với điều kiện có hạn, nông dân không thể tự đầu tư hoàn toàn mà cần có sự trợ giúp của Nhà nước. Chẳng hạn, chính quyền, đoàn thể địa phương đứng ra tổ chức một nhóm hộ hay tổ hợp tác của nông dân sử dụng chung máy móc để làm đất, thu hoạch, vận chuyển... Nhà nước hỗ trợ các tổ, nhóm mua sắm các loại máy hiện đại: máy gặt đập liên hợp, máy gặt xếp dãy, máy sấy lúa...

Cuối cùng, cần có một chương trình đào tạo đặc biệt dành riêng cho nông dân. Đây là giải pháp hữu hiệu, bền vững mà nhiều nước như Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc đã thực hiện thành công. Tại Việt Nam, Nhà nước có thể soạn một chương trình học dành cho nông dân với 3 nội dung. Đầu tiên là học khái quát những kiến thức phổ thông để nâng cao trình độ văn hóa. Tiếp theo là học những kiến thức chuyên ngành về nông nghiệp để giữ nghề và phát triển nghề nông. Cuối cùng là học để trang bị thêm kiến thức của ngành nghề khác, giúp nông dân có thể chuyển nghề khi không còn làm nghề nông nữa. Kinh phí học tập sẽ do Nhà nước tài trợ. Ba chương trình học này sẽ giúp nâng cao trình độ học vấn, trí lực của nông dân, làm nền tảng vững chắc cho việc phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại.

Lệ Thu (Lược ghi)

Giáo sư, Tiến sĩ Võ-Tòng Xuân NGUYÊN HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG:

Cần có hệ thống chính sách khuyến khích “Liên kết nhiều “nhà” tham gia sản xuất kỹ thuật cao”

 

Để tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống nông dân, sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, cần phải đổi mới tư duy quản lý. Trước hết, từ phía nông dân. Bà con phải tự nhận rõ là làm ăn một mình, một cách tự do sẽ rất khó làm giàu, vì mình không thể chỉ bán hàng ở chợ làng mà phải bán ra khắp các tỉnh, thành trong nước và vươn ra ngoài nước. Nông dân phải biết ra biển nhưng không phải bằng cách tự bơi chiếc thuyền nan đi. Cần phải có những doanh nghiệp giỏi. Nên có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh nông sản, như: vốn đầu tư ưu đãi, phát triển thị trường nông thôn...

Thị trường nông thôn phải được nối chặt với thị trường thành thị và thị trường quốc tế. Để làm được điều này, sản phẩm nông nghiệp phải đạt chất lượng tối hảo theo đòi hỏi của người tiêu dùng; khối lượng sản phẩm phải đủ lớn để giảm phí chuyên chở; thời điểm giao hàng phải đúng theo hợp đồng; giá sản phẩm phải thật cạnh tranh. Để sản phẩm nông nghiệp đạt được những tiêu chí trên, phải có một hệ thống chính sách khuyến khích để thực hiện mô hình “Liên kết nhiều “nhà” tham gia sản xuất kỹ thuật cao”. Cụ thể, gồm những bước cơ bản sau:

Trước hết, cần xác định lợi thế tương đối của từng vùng: vùng nào có thế mạnh về cây gì, con gì, có lợi thế gì hơn vùng khác hoặc quốc gia khác... Trên cơ sở rất khoa học đó, Nhà nước địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp để tạo điều kiện tốt cho nông dân sản xuất mặt hàng đó. Cùng với việc xác định lợi thế nuôi trồng của từng vùng, Nhà nước và doanh nghiệp cần xác định thị trường cho từng sản phẩm mũi nhọn ấy để chuẩn bị xúc tiến thương mại.

Tập hợp nông dân trong từng vùng sản xuất để xây dựng “Cụm liên kết sản xuất theo nông nghiệp kỹ thuật cao” hoặc những hợp tác xã nông nghiệp có khả năng tạo ra những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trong nước và quốc tế. Nhà nước sẽ tổ chức đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân một cách cụ thể để sản xuất loại nông sản của hợp tác xã hoặc cụm liên kết sản xuất. Tập hợp các Bộ, ngành chuyên môn, trường đại học, trung tâm, viện nghiên cứu để nghiên cứu và ứng dụng: qui trình kỹ thuật thích hợp; kỹ thuật chế biến, bao bì đóng gói tốt nhất cho sản phẩm; tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm...

Tập hợp các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất và tiêu thụ nông sản, gồm: ngân hàng, công ty hóa chất nông nghiệp, công ty bảo quản, chế biến bao bì, phân phối cho mạng lưới đại lý trong nước, và xuất khẩu hàng có thương hiệu ra nước ngoài...

Cụm liên kết sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao sẽ có tác dụng quyết định đến tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam qua tác động trên cả 3 khu vực: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Vai trò điều phối của Nhà nước sẽ quyết định sự thành bại đối với sự liên kết của các nội dung trên.

Bích Ngọc (Lược ghi)

Tiến sĩ Nguyễn Minh Châu VIỆN TRƯỞNG VIỆN CÂY ĂN QUẢ MIỀN NAM:

Cần qui hoạch lại vùng sản xuất tập trung qui mô lớn

 

Năm 2008 thật sự là một mốc son của trái cây Việt Nam: thanh long Bình Thuận mở được cửa thị trường Mỹ, sau khi đã được thị trường châu Á, châu Âu chấp nhận. Chính phủ đã xác định cây ăn trái là một trong những mặt hàng nông sản chủ lực. Nhắc đến cây ăn trái, người ta nghĩ ngay đến ĐBSCL, bởi nơi đây có nhiều loại trái cây ngon nổi tiếng như: bưởi Da xanh, xoài cát Hòa Lộc, chôm chôm nhãn, bưởi Năm Roi, vú sữa Lò Rèn... Thế nhưng, tại sao người làm vườn ở ĐBSCL chưa thể giàu lên được với nghề của mình, với đất của mình? Theo tôi, nguyên nhân chủ yếu là do giá trị xuất khẩu của trái cây ĐBSCL còn quá thấp. Hàng chục năm qua, kim ngạch xuất khẩu trái cây ĐBSCL không đáng kể. Không mở rộng được thị trường nên nông dân thường xuyên lâm vào cảnh “được mùa, mất giá”. Mỗi lần “mất giá”, nông dân lại hoang mang chuyển đổi cây trồng một cách tự phát.

Vì sao giá trị xuất khẩu của trái cây ĐBSCL thấp? Đó là do diện tích cây ăn quả đặc sản quá nhỏ, manh mún, thiếu quy hoạch. Có người chỉ có vài công vườn nhưng trong vườn thì dường như loại trái cây nào cũng có. Đó là do nông dân mang tâm lý trồng nhiều loại, có được trái cây bán quanh năm, thứ này thất mùa, mất giá thì còn thứ khác. Nhiều nông dân thấy một loại trái cây nào đó có giá cao thì cứ đổ xô vào trồng mà không nghĩ đến thổ nhưỡng không phù hợp sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đó là hệ quả tất yếu của tình trạng thiếu qui hoạch vùng sản xuất ở từng tỉnh, thành cũng như cả ĐBSCL.

Để trái cây ĐBSCL thâm nhập và đứng vững trên thị trường quốc tế, cần bắt đầu bằng việc qui hoạch lại vùng sản xuất, xây dựng thương hiệu. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) đã đề cập đến giải pháp xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung để phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân. Việc tổ chức lại sản xuất nên thực hiện theo hướng hợp tác hoặc tích tụ lại đất đai thành trang trại lớn, vùng chuyên canh lớn. Vùng chuyên canh một loại cây ăn trái phải có qui mô từ vài ba ngàn ha trở lên mới có thể tính đến chuyện xuất khẩu. Xây dựng vùng chuyên canh với qui mô lớn còn giúp cho việc chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật một cách dễ dàng, hạn chế được các loại dịch bệnh. Để xây dựng được vùng chuyên canh, trước mắt, cần giúp nhà vườn thay đổi tư duy theo hướng: cùng làm một cây, một qui trình trong một vùng, cùng nhau đóng gói dưới một thương hiệu. Đồng thời, liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu để làm theo đúng tiêu chuẩn họ yêu cầu.

Thổ nhưỡng của vùng châu thổ Cửu Long cơ bản là giống nhau nhưng từng nơi vẫn có những đặc điểm riêng, phù hợp với từng loại cây ăn trái nhất định. Chẳng hạn, vú sữa Lò Rèn ngon nhất vẫn là ở Tiền Giang, bưởi Năm Roi thì ở Vĩnh Long... Đã đến lúc các địa phương ngồi lại với nhau để cùng phân tích và xây dựng vùng nguyên liệu thích hợp. Mỗi tỉnh, thành chỉ cần xác định 1-2 loại cây ăn trái có ưu thế cạnh tranh và làm đến nơi đến chốn từ sản xuất, bảo quản sau thu hoạch đến bao bì sản phẩm, xúc tiến thương mại như mô hình thanh long ở Bình Thuận. Như vậy, đời sống nông dân mới khá giàu lên, nông nghiệp- nông thôn mới có thể phát triển, hiện đại hóa.

Ly Giang (Lược ghi)

Tiến sĩ Hà Thanh Toàn PHÓ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ:

Tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo nông dân

Nghị quyết Trung ương 7 ra đời nhằm tạo điều kiện phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững; xây dựng nông thôn mới ổn định, có đời sống văn hóa phong phú; nâng cao đời sống nông dân. Đây là những mục tiêu quan trọng của Nghị quyết, là cơ sở để đảm bảo công bằng cho nông dân, xóa dần chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. Trong đó, điều quan trọng nhất là nâng cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nông dân. Phải làm sao để nông dân được thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, được khám và điều trị bệnh bởi những y bác sĩ giỏi; được học với những thầy cô giỏi, tiếp cận với phương pháp giáo dục hiện đại...

Nghị quyết Trung ương 7 có những quan điểm mới rất quan trọng về các vấn đề “tam nông”. Khi Nghị quyết xác định nông dân là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn thì cần phải xây dựng chiến lược, tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo nông dân để tạo ra nguồn nhân lực phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Việc giảm cơ cấu nông nghiệp hợp lý, chuyển một bộ phận nông dân sang lĩnh vực công nghiệp- dịch vụ để phát huy cao nhất hiệu quả của ngành nông nghiệp là cơ sở để nâng cao thu nhập nông dân, xây dựng nông thôn mới hài hòa và thân thiện với môi trường. Rà soát lại qui hoạch tổng thể vùng miền, ngành nghề sao cho hợp lý để phát huy cao nhất ưu thế của từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi sẽ tạo điều kiện để phát triển các vùng chuyên canh, phục vụ cho sản xuất hàng hóa với khối lượng lớn, chất lượng cao. Việc đẩy mạnh thực hiện bảo hiểm nông nghiệp nhằm đảm bảo ổn định mức sống tối thiểu của nông dân có ý nghĩa rất quan trọng để nông dân gắn bó với nông nghiệp, nông thôn. Định hướng phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp nông thôn, thúc đẩy và khuyến khích quá trình tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế tập thể, kinh tế trang trại, hợp tác xã... sẽ tạo được sức bật mạnh mẽ cho nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân.

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khoa học công nghệ đóng vai trò rất quan trọng. Các nhà khoa học cần: tập trung chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân để áp dụng vào canh tác nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm giá thành, tăng thu nhập; cung cấp, cập nhật thông tin cho nông dân, chính quyền cơ sở để nâng cao trình độ và nhận thức cho nông dân, cán bộ nông thôn; mở các lớp huấn luyện, đào tạo chuyên môn phục vụ sản xuất nông nghiệp; tham gia hoạch định chính sách, qui hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở khoa học vững chắc; đào tạo nguồn nhân lực cho chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn...

Bích Kiên (Lược ghi)

 

Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Chí Bửu VIỆN TRƯỞNG VIỆN KHOA HỌC KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP MIỀN NAM, CHỦ TỊCH LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC KỸ THUẬT TP CẦN THƠ:

"Trí thức hóa nông dân" và thực hiện chiến lược "nông sản giá trị gia tăng" 

Điều tôi tâm đắc nhất là Nghị quyết Trung ương 7 đã xác định “tam nông” là vấn đề của toàn Đảng, toàn dân chứ không phải của riêng một bộ, ngành nào. Xác định như vậy mới huy động được sức mạnh tổng hợp để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nông dân.

ĐBSCL là 1 trong 7 vùng kinh tế quan trọng của cả nước, là châu thổ lớn và phì nhiêu bậc nhất không những của Việt Nam mà của cả Đông Nam Á. Thế nhưng, phần lớn nông dân của ĐBSCL vẫn còn nghèo. Việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ở đây chưa đạt như mong muốn. Nguyên nhân là do chúng ta chưa có giải pháp đúng về thị trường nông sản. Chính vì vậy, dù bình quân lương thực trên đầu người khá cao (trên 1.000kg) nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha vẫn rất thấp. Tính độc canh cây lúa của ĐBSCL đã đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước nhưng lại khó cải thiện thu nhập của nông dân.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, nông nghiệp Việt Nam nói chung và nông nghiệp ĐBSCL nói riêng, đang đứng trước rủi ro do thiếu kinh nghiệm và thiếu qui hoạch có tính tổng thể, lâu dài. Nông sản có phẩm chất ngon hiện được trồng rải rác theo kiểu kinh tế hộ, không biểu thị rõ vùng chuyên canh để có sản phẩm hàng hóa đủ sức cạnh tranh cả về “lượng” và “chất”. Đặc biệt, chúng ta thiếu những kế hoạch lâu dài cho chương trình cải tiến phẩm chất nông sản. Trong khi đó, mỗi thị trường đều có thị hiếu khác nhau. Những vấn đề nêu trên cho thấy khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam hạn chế không phải chỉ do chất lượng giống mà còn do trình độ quản lý.

Vì vậy, nông nghiệp Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng cần chuyển hướng phát triển theo chiều sâu, trên cơ sở phát triển khoa học nông nghiệp, nhất là lĩnh vực ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống. Sản xuất nông nghiệp không phải chỉ bằng kinh nghiệm của nông dân mà phải sản xuất bằng kiến thức khoa học. Phát huy vai trò quan trọng của công tác khuyến nông trong việc thực hiện nội dung “trí thức hóa nông dân”. Tập trung thực hiện chiến lược “nông sản giá trị gia tăng” thông qua công nghệ chế biến để nâng cao giá trị kinh tế của nông sản.

Bên cạnh đó, Nhà nước nên xem đầu tư vào nghiên cứu khoa học là hướng đột phá cho giai đoạn phát triển chiều sâu. Các nghiên cứu khoa học cần tập trung vào vấn đề nâng cao phẩm chất và giá trị nông sản; phòng ngừa dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi; ứng dụng công nghệ sinh học vào chọn tạo giống; phát triển công nghệ sau thu hoạch... Bên cạnh đó, để phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân ĐBSCL, cần tập trung vào các nội dung sau: đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn; chú trọng nâng cao dân trí, thu hẹp chênh lệch giữa người trồng lúa với hộ phi nông nghiệp; hiện đại hóa công nghệ chế biến lúa gạo, thủy sản, rau quả... ngang tầm với các nước trong khu vực...

Hà Thanh (Lược ghi)

Kỹ sư Thủy sản Nguyễn Văn Khởi PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH SÓC TRĂNG:

Hình thành các vùng chuyên canh thủy sản để áp dụng qui trình hiện đại

Những năm gần đây, khi con tôm sú không còn đạt hiệu quả kinh tế cao như trước, nông dân Sóc Trăng cũng như nông dân của các tỉnh, thành khác ở ĐBSCL bắt đầu chuyển sang nuôi thử nghiệm tôm thẻ chân trắng. Tuy nhiên, do giá công chế biến của con tôm thẻ chân trắng cao hơn con tôm sú nên giá thành cao. Mặt khác, vấn đề thị trường và ảnh hưởng môi trường khi mở rộng diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng chưa được xác định, nên ngành thủy sản rất thận trọng trước bước chuyển đổi này. Khu vực được xem là bền vững về mặt sinh thái nhất đó chính là vùng nước lợ với mô hình lúa-tôm. Thế nhưng, ở Sóc Trăng, trong năm 2008, cả 3 vùng nuôi: nước ngọt, nước lợ, nước mặn đều không đạt yêu cầu về giá trị sản phẩm. Trong đó, chỉ có khoảng 40% người nuôi đạt hiệu quả, 40% người nuôi bị lỗ và 20% người nuôi bảo vệ được vốn nuôi.

Theo tôi, có nhiều nguyên nhân làm cho ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh Sóc Trăng nói riêng và ĐBSCL nói chung gặp khó khăn. Đó là: nhiều văn bản pháp qui về nuôi trồng thủy sản chưa được triển khai đồng bộ; các loại giống nuôi chưa đạt yêu cầu; người dân chưa thực hiện đồng bộ qui trình nuôi, chưa tiếp cận được những tiến bộ khoa học kỹ thuật... Hiện nay ở ĐBSCL, nuôi thủy sản mang tính chất nông hộ vẫn chiếm đa số. Vì vậy, việc chuyển giao khoa học kỹ thuật gặp không ít khó khăn. Nguồn tài chính của phần lớn nông hộ còn yếu nên mức đầu tư không cao, khó sinh lãi lớn. Ngoài ra, giá các loại thức ăn, thuốc phục vụ cho nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam luôn ở mức cao so với các nước khác nên giá thành sản phẩm bị đẩy lên cao, khó cạnh tranh. Thêm vào đó, người dân lại phải gánh chịu rất nhiều rủi ro trước những bất trắc từ thiên tai, dịch bệnh mà không hề được bảo hiểm...

Nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL vẫn có thể phát triển mạnh mẽ nếu được đầu tư đồng bộ và có định hướng. Thực tế cho thấy, những người nuôi thủy sản đạt hiệu quả, giá trị kinh tế cao là những người nuôi với qui mô lớn hoặc những trang trại hợp tác. Với những mô hình này, rất dễ thực hiện qui trình nuôi sạch, hiện đại và khép kín. Trước mắt, chúng tôi đang khuyến cáo người nuôi trồng thủy sản đa dạng đối tượng nuôi, giảm mật độ để giảm chi phí nuôi...

Về lâu dài, nên hướng đến nuôi tôm một vụ, chuyên canh để đảm bảo chất lượng và sản lượng, nâng cao giá trị xuất khẩu. Để xây dựng được các vùng chuyên canh, cần phải có giải pháp đồng bộ giữa các ngành, thực hiện đúng qui hoạch và kịp thời những chủ trương, chính sách, qui định của pháp luật về nuôi trồng thủy sản. Cần tập trung tháo gỡ những khó khăn hiện nay của ngành nuôi trồng thủy sản bằng các giải pháp: hỗ trợ vốn cho người nuôi, giảm giá thành thức ăn, thuốc thú y, ổn định thị trường xuất khẩu. Đặc biệt, đẩy mạnh hơn nữa việc đào tạo nghề nuôi trồng thủy sản cho bà con nông dân. Đây là nền tảng để việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nuôi thủy sản được thuận lợi, hiệu quả. Bên cạnh đó, cần đầu tư nhiều hơn cho công tác nghiên cứu khoa học, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học vào nghiên cứu sản xuất các loại giống nuôi phù hợp với từng vùng và có giá trị kinh tế cao...

Ly Giang (Lược ghi)

Chia sẻ bài viết