Với 19 hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết, thực thi và đàm phán, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới; mở đường cho doanh nghiệp (DN), hàng hóa Việt tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, thị trường ASEAN và châu Á được đánh giá vô cùng tiềm năng do ưu thế về khoảng cách địa lý, tương đồng về văn hóa, tập quán tiêu dùng. Song để tận dụng cơ hội, lợi thế các FTA mang lại đòi hỏi DN phải hiểu và nắm vững các cam kết, quy định cũng như cập nhật các định hướng, chủ trương, chính sách, quy tắc xuất xứ hàng hóa và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc đàm phán và thực thi các FTA.
Chế biến gạo phục vụ xuất khẩu tại Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ.
Nhiều lợi thế
Tại hội thảo Xúc tiến thương mại sang thị trường châu Á - chuyên đề: cập nhật các vấn đề liên quan tới các FTA trong khuôn khổ ASEAN và quy tắc xuất xứ theo các FTA mới đây, các chuyên gia cho rằng, với các ưu đãi về thuế quan; môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, minh bạch hơn; quy tắc xuất xứ linh hoạt... Việt Nam có thể tận dụng tốt cơ hội từ các FTA trong ASEAN để tham gia vào các chuỗi giá trị trong khu vực. Ðơn cử, trong hiệp định Ðối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP), các nước cam kết xóa bỏ, cắt giảm thuế nhập khẩu, không cam kết đối với thuế xuất khẩu. Cùng đó, việc mở cửa thị trường hàng hóa tương tự các FTA ASEAN hiện hành. Các nước ASEAN xóa bỏ thuế quan cho Việt Nam khoảng 85,9-100% số dòng thuế; lộ trình dài nhất từ 15-20 năm kể từ khi FTA có hiệu lực. Ngoài ra, các nước đối tác xóa bỏ thuế quan cho Việt Nam khoảng 90,7-98,3% số dòng thuế; lộ trình dài nhất từ 15-20 năm kể từ khi FTA có hiệu lực.
Ông Quyền Anh Ngọc, Trưởng phòng ASEAN, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương, cho biết: Ðiểm khác biệt về thuế trong RCEP là các nước áp dụng cam kết thuế quan khác nhau với các đối tác khác nhau cho một số mặt hàng, trong khi các FTA khác chỉ áp dụng một biểu cam kết thuế quan. Các FTA nói chung và RCEP nói riêng giúp DN Việt đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất; tiết kiệm thời gian và chi phí đối với việc giao dịch, thông quan cũng như phát hành hóa đơn thương mại… Ðây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể xuất khẩu các mặt hàng thủy sản; thịt; rau quả; máy móc, trang thiết bị cơ khí; giày, dép và bộ phận, phụ kiện của giày, dép; nguyên liệu dệt, hàng dệt may, quần áo…
Cũng liên quan đến vấn đề tiếp cận thị trường, theo ông Phạm Thế Cường, Tham tán Thương mại tại Indonesia, khi đưa hàng hóa sang Indonesia, Việt Nam có lợi thế về sự tương đồng trong văn hóa, ẩm thực, tiêu dùng. Ðây cũng là thị trường truyền thống, dễ tính hơn so với các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Mặt khác, các mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam nhiều năm qua đã khẳng định vị thế tại thị trường này. Khoảng cách địa lý gần, có đường bay thẳng cũng là điểm cộng giúp DN Việt Nam tiết kiệm chi phí vận chuyển, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa thâm nhập sâu hơn vào thị trường Indonesia.
Cần giải pháp ứng phó linh hoạt
Theo các chuyên gia, về lý thuyết, các FTA song phương và đa phương mang lại nhiều thuận lợi, cơ hội cho DN mở rộng, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa. Tuy nhiên, trên thực tế, DN gặp không ít khó khăn, cản ngại khi áp dụng, thực thi các FTA như điều khoản thỏa thuận phức tạp, thiếu chuyên gia nội bộ, thị trường kém hấp dẫn… Chính vì vậy, để tận dụng tốt các ưu đãi từ FTA, ông Quyền Anh Ngọc lưu ý DN nên chủ động nghiên cứu, nắm vững các cam kết; xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp để khai thác tối đa cơ hội; nỗ lực đổi mới sáng tạo, chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tham gia các chuỗi cung ứng mới... Ngoài ra, cần có sự gắn kết, phối hợp với các bộ ngành, hiệp hội, đơn vị có liên quan để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ cần thiết cũng như kịp thời giải quyết các tình huống phát sinh.
Theo ông Phạm Thế Cường bên cạnh những thuận lợi, thị trường Indonesia cũng đặt ra một số thách thức cho DN Việt Nam. Trong đó, DN cần lưu ý đến các biện pháp bảo hộ cao của Indonesia như hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, chứng nhận Halal, tiêu chuẩn quốc gia (SNI) và quy định về cảng nhập khẩu. Indonesia cũng thường xuyên áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, đồng thời sở hữu địa hình chia cắt với nhiều đảo, dẫn đến chi phí logistics gia tăng. Vì vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, DN cần chủ động xin giấy chứng nhận Halal, SNI. Quá trình đàm phán hợp đồng, DN cần cảnh giác khi thấy việc thương lượng giá cả, hợp đồng diễn ra quá thuận lợi, nhanh chóng; không cung cấp hoặc cung cấp giấy tờ pháp lý DN dưới nhiều pháp nhân khác nhau.
TS Khổng Quốc Minh, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, khi nắm vững được những quy định, cam kết từ các FTA, DN không những tự tin khi vào sân chơi lớn mà còn hạn chế các rủi ro trong các hoạt động giao thương, xuất khẩu hàng hóa. Trong đó, để tránh những vấn đề phát sinh liên quan đến sở hữu trí tuệ của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường châu Á, DN cần chủ động trong việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của mình khi xuất khẩu. Ðồng thời, tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của DN khác cũng như quy định về sở hữu trí tuệ tại thị trường xuất khẩu. TS Khổng Quốc Minh cũng khuyến cáo DN nên có thói quen sử dụng dịch vụ đại diện sở hữu trí tuệ tại nước ngoài. Ðây là giải pháp tối ưu nhằm giúp DN hạn chế được rủi ro về quyền sở hữu trí tuệ và nâng cao cơ hội thành công trên thị trường quốc tế.
Bài, ảnh: MỸ THANH