26/12/2019 - 10:32

Sống thử - những rủi ro pháp lý 

“Sống thử” - nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, nhưng không đăng ký kết hôn và không hoặc chưa tổ chức hôn lễ - là khái niệm đã không còn xa lạ với nhiều người và đã trở thành một hiện tượng xã hội. Dưới góc độ pháp lý, những người “sống thử” phải chịu nhiều rủi ro.

Người dân làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của UBND phường Tân Hưng.

Một trong những rủi ro, thiệt thòi đầu tiên là không được pháp luật bảo vệ, khi xuất hiện người thứ ba. Theo bà Võ Thị Ngọc Sương, Trưởng Phòng Tư pháp huyện Thới Lai, pháp luật hiện hành không quy định bắt buộc những người sống thử phải chung thủy với nhau, giữa họ không có một sự ràng buộc pháp lý nào nên cũng không được pháp luật bảo vệ. Do đó, khi một bên trong quan hệ này không chung thủy thì bên còn lại cũng không thể yêu cầu cơ quan nào xử phạt hay buộc người đó chấm dứt việc ngoại tình.

Tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tình nghĩa vợ chồng: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Ngoài ra, tại Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định: “Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…”. Theo đó, vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc… và đặc biệt là phải chung thủy với nhau, đảm bảo chế độ hôn nhân một vợ, một chồng. Như vậy, những người được pháp luật công nhận là vợ chồng, sẽ được pháp luật bảo vệ trước người thứ ba. Khi một người có hành vi ngoại tình, có thể bị xử lý theo chế tài của pháp luật, như: xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 47 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, xử lý hình sự theo Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015…

Bên cạnh đó, đến khi sinh con, những người “sống thử” cũng gặp rắc rối trong việc thực hiện thủ tục đăng ký khai sinh cho con, nhất là ở việc ghi tên cha vào giấy đăng ký khai sinh. Anh Trần Hữu Trí, Công chức Tư pháp – Hộ tịch của UBND phường Tân Hưng (quận Thốt Nốt), cho biết: “Trong trường hợp hai người “sống thử” mà có con, việc xác định quan hệ cha con sẽ không thể căn cứ vào thời kỳ hôn nhân như Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cũng như khi đăng ký khai sinh cho con không có giấy đăng ký kết hôn để xác định cha cho con. Chính vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 15 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, trong Giấy khai sinh cho trẻ chỉ ghi phần thông tin của mẹ và phần ghi về cha sẽ để trống. Trường hợp này, nếu người cha muốn nhận con thì căn cứ Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP, Điều 25 và Điều 44 Luật Hộ tịch, người cha phải nộp những chứng cứ chứng minh quan hệ cha con như: kết quả của cơ quan giám định xác nhận quan hệ cha con…”.

Không dừng lại đó, khi hai bên chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, tài sản được xác lập trong thời kỳ này không được xác định theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, Đoàn Luật sư TP Cần Thơ, khi hai bên vợ, chồng có đăng ký kết hôn, tranh chấp một tài sản mà vợ hoặc chồng đang có là tài sản riêng thì phải có chứng cứ để chứng minh; nếu không chứng minh được thì tài sản đó được coi là tài sản chung (Khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Còn trường hợp vợ chồng chung sống không đăng ký kết hôn, đối với tài sản đứng tên một người thì để chứng minh nó là tài sản chung phải có chứng cứ chứng minh công sức đóng góp của mình. Khi giải quyết quan hệ tài sản cho những người sống chung như vợ chồng sẽ căn cứ Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan... Cũng theo Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, trên thực tế, khi quan hệ tình cảm còn tốt, ít ai quan tâm, tính toán, giữ lại chứng cứ chứng minh sự đóng góp của mình trong việc tạo lập tài sản. Do đó, để xác định tài sản, công sức của mình trong việc tạo lập tài sản khi “sống thử” là điều khó khăn…

Không những vậy, hai người “sống thử” có thể chia tay bất cứ lúc nào, ngay cả khi người nữ đang mang thai và việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cũng sẽ gặp khó khăn. Điều này sẽ là thiệt thòi cho người nữ khi “sống thử” so với những người có đăng ký kết hôn. Bởi vì, trong quan hệ hôn nhân, chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi (khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014)...

 Với những rủi ro về mặt pháp lý như trên, hai bên nam và nữ nên cân nhắc kỹ khi quyết định “sống thử”, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của chính mình.

Bài, ảnh: CHẤN HƯNG

Chia sẻ bài viết
Từ khóa
Sống thử