Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) hợp tác xây dựng từ năm 2005. Chỉ số này nhằm đánh giá về chất lượng điều hành kinh tế, mức độ thuận lợi, thân thiện của môi trường kinh doanh và nỗ lực cải cách hành chính của chính quyền các tỉnh, thành phố tại Việt Nam. Sau 15 năm triển khai, chỉ số PCI năm 2019 được đánh giá có nhiều cải thiện, hướng đến sự bền vững. Song các chuyên gia cũng cho rằng, việc cải thiện chỉ số PCI trong thời gian tới cần chú ý đến các nội dung mới như biến đổi khí hậu, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và các vấn đề hậu dịch COVID-19.
Cải thiện tích cực

Sau dịch COVID-19, kinh tế thế giới sẽ có nhiều biến đổi và cải thiện chỉ số PCI là nền tảng để Việt Nam đón cơ hội kinh doanh và đầu tư mới. Trong ảnh: Hoạt động sản xuất tại Công ty TNHH Hào Tân, TP Cần Thơ.
Báo cáo PCI 2019 được xây dựng dựa trên thông tin phản hồi từ gần 12.500 doanh nghiệp (DN), trong đó, có khoảng 11.000 DN dân doanh đang hoạt động tại 63 tỉnh, thành phố và trên 1.500 DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang hoạt động tại 21 địa phương tại Việt Nam. Tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng PCI 2019 năm thứ ba liên tiếp là Quảng Ninh (73,4 điểm), kế đến là Đồng Tháp (72,1 điểm), Vĩnh Long (71,3 điểm) và Bắc Ninh (70,79 điểm). Các tỉnh, thành phố tiếp theo trong nhóm 10 tỉnh, thành phố đứng đầu bao gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Bến Tre, Long An, Hà Nội và Hải Phòng. Các địa phương nằm trong nhóm xếp hạng cao còn có Cần Thơ, Thái Nguyên, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Bà Rịa-Vũng Tàu…
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, VCCI, Giám đốc Chương trình PCI, cho biết: Kết quả Điều tra PCI 2019 cho thấy bức tranh khá sáng sủa về môi trường kinh doanh tại Việt Nam và chất lượng điều hành kinh tế tại các địa phương duy trì xu hướng tích cực. Năm 2019, điểm số PCI gốc đạt 63,25 điểm, điểm số PCI tổng hợp đạt 65,13 điểm. Đây là điểm số cao nhất trong vòng 15 năm qua. Ngoài ra, tỉnh đứng đầu Bảng xếp hạng đã nâng tầm chất lượng điều hành; khoảng cách giữa các tỉnh đầu và cuối dần thu hẹp. Chi phí không chính thức tiếp tục giảm, ưu ái đối với một số loại hình DN giảm, an ninh trật tự được củng cố, cải cách thủ tục hành chính có kết quả tích cực. Ở khâu cải cách hành chính, 81,3% DN cho biết "Cán bộ nhà nước giải quyết công việc hiệu quả", tăng đáng kể so với tỷ lệ 67,4% năm 2015; 73,6% DN quan sát thấy "Cán bộ nhà nước thân thiện" trong quá trình giải quyết thủ tục (năm 2015 chỉ là 59%); 72,6% DN phản ánh "Thời gian thực hiện thủ tục hành chính được rút ngắn hơn so với quy định", tiếp tục xu hướng gia tăng từ 67% năm 2017 và 69,8% năm 2018…
Với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Báo cáo PCI 2019 cũng dành một phần quan trọng để đánh giá việc áp dụng tự động hóa và số hóa vào trong sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ của DN. Kết quả điều tra 1.583 DN FDI và 8.773 DN dân doanh cho thấy, các ngành có tỷ lệ tự động hóa cao là: sản xuất sản phẩm, thiết bị điện; sản xuất, chế biến thực phẩm; bán buôn, bán lẻ; sản xuất sản phẩm giường, tủ, bàn, ghế; sản xuất, chế biến giấy; nông nghiệp, thủy sản… Giáo sư Tiến sĩ Edmund J. Malesky, Đại học Duke, Hoa Kỳ, nhận định: "Việc tự động hóa, số hóa tại DN tác động cả về mặt tích cực và tiêu cực tới thị trường lao động. Một số ngành nghề sẽ có nhu cầu tuyển dụng lao động thêm, đặc biệt là lao động có tay nghề cao. Mặt khác, tự động hóa và số hóa làm giảm cơ hội việc làm của các lao động không có tay nghề hoặc tay nghề thấp".
Theo Giáo sư Tiến sĩ Edmund J. Malesky, Đại học Duke, Hoa Kỳ, để giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình tự động hóa và số hóa, Việt Nam cần tiếp tục các nỗ lực nâng cao chất lượng giáo dục, cải thiện kỹ năng lao động và cải thiện quan hệ lao động. Cách tiếp cận chính sách của Việt Nam hiện đang đi đúng hướng nên cần duy trì và phát huy. Ngoài ra, ngành chức năng cần tiếp tục cải cách giáo dục nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học; hoàn thiện các chương trình cải cách thông qua tham vấn cộng đồng DN về nhu cầu tuyển dụng lao động có kỹ năng. Dịch COVID-19 làm tình trạng thất nghiệp kéo dài, giáo dục đào tạo bị gián đoạn sẽ khiến người lao động Việt Nam càng khó đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. Chính vì vậy, việc triển khai các chương trình đào tạo kinh doanh và quản lý, hỗ trợ DN hậu COVID-19 là vô cùng cần thiết.
|
Đón cơ hội mới
Bên cạnh những kết quả đạt được, Báo cáo PCI 2019 cũng đưa ra 5 vấn đề khó khăn lớn nhất mà các DN dân doanh đang gặp phải bao gồm: tìm kiếm khách hàng (63%), tiếp cận vốn (35%), tìm kiếm nhân sự thích hợp (34%), tìm kiếm đối tác kinh doanh (28%) và biến động thị trường (27%). Đặc biệt, khó khăn của DN chắc chắn sẽ còn nghiêm trọng hơn trong năm 2020 và thời gian tới bởi những tác động tiêu cực do dịch bệnh COVID-19. Nhiều DN đang đứng trước nguy cơ tạm dừng hoạt động, thậm chí phá sản. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, các DN đang rất cần sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả từ Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương.
Theo Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, thời điểm khảo sát, điều tra PCI 2019 (giữa năm 2019), mỗi ngày Việt Nam có 380 DN được thành lập mới, số vốn đăng ký cũng có xu hướng tăng; có hơn 50% DN cho biết sẽ mở rộng quy mô sản xuất trong 2 năm tới. Tuy nhiên, đầu năm 2020, xảy ra dịch COVID-19 đã ảnh hưởng năng nề đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN. "Việt Nam là một trong số các nước kiềm chế được dịch bệnh sớm và đây là thời cơ vàng để chúng ta tái khởi động và phục hồi nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý phục hồi không phải là để trở về hôm qua, tái khởi động không phải là làm theo cách cũ. Thế giới sau đại dịch sẽ khác với thế giới của ngày hôm nay. Các dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế đang đảo chiều, các chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ được định hình lại một cách tin cậy hơn và bền vững hơn. Vì vậy, các DN sẽ phải kinh doanh sáng tạo và phải có trách nhiệm hơn"- Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc nói.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, VCCI, Giám đốc Chương trình PCI, cho rằng, Việt Nam còn nhiều dư địa để cải thiện minh bạch, đào tạo lao động và dịch vụ hỗ trợ DN. Đồng thời, cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ, thực chất để cắt giảm thủ tục hành chính hậu đăng ký và cải thiện điều kiện kinh doanh hơn nữa. Để thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển, cần có các chính sách kịp thời, hiệu quả để tháo gỡ các vấn đề đã xác định và thúc đẩy môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch cho DN tại Việt Nam. "Quá trình điều tra, khảo sát các chỉ số thành phần, chúng tôi cũng nhận được phản ánh từ DN cho rằng vấn đề biến đổi khí hậu, thiên tai cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, năng suất của người lao động. Vì vậy, ngành chức năng cũng chú ý đến các vấn đề này để hỗ trợ DN kịp thời"-ông Đậu Anh Tuấn lưu ý.
Bài, ảnh: MỸ THANH