08/02/2014 - 20:10

Lễ hội Lăng Ông Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn

“Nhớ về thăm lại Trà Ôn
Tháng Giêng mùng 4 giỗ Ông Ngọc Hầu!”

Đó là lời nhắn nhủ nhớ đến tham dự Lễ hội Lăng Ông Tiền quân Thống chế Điều Bát Nguyễn Văn Tồn. Đây là lễ hội đầu năm duy nhất diễn ra ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Lễ hội diễn ra liên tục trong ba ngày ba đêm, bắt đầu từ sáng mồng 2 Tết Nguyên đán hằng năm, thu hút hàng ngàn lượt khách xa gần tham dự. Phần lễ trang trọng với nghi thức cổ truyền của đình miếu xưa. Phần hội rôm rả với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa dân gian, như: gói bánh tét - đặc sản của đồng bào lưu vực sông Cửu Long. Ngày hội gói bánh tét với sự tham gia của những người giỏi tay nghề, biểu diễn nghệ thuật ẩm thực cổ truyền của gia đình mình trước sự dự khán của khán giả mộ điệu. Các cuộc thi đấu bóng chuyền, các trò chơi dân gian: kéo co, đẩy gậy, đá bóng mù... cũng thu hút đông đảo bà con. Không khí càng thêm sôi động với lễ hội dâng bông. Dâng bông là cổ tục đẹp dành dâng cúng rước thần linh tại các đình vào những ngày lễ kỳ yên trọng đại trong năm. Trong tiếng trống, tiếng kèn, tiếng thanh la, não bạt rền vang, các bà đồng trong trang phục rực rỡ, trang điểm đẹp, liên tục biểu diễn nghệ thuật uốn dẻo và giữ thăng bằng. Tài nghệ điêu luyện của họ đã hớp hồn người dự khán. Không khí buổi lễ trở nên êm đềm vào buổi tối với các buổi biểu diễn đờn ca tài tử của các câu lạc bộ văn nghệ “cây nhà lá vườn”. Người xem hòa lắng hồn mình trong tiếng nhạc, điệu kèn, lời ca trong cung bậc ngũ âm dặt dìu quyến rũ. Rồi các đoàn lân nhào lộn ngoạn mục, rộn ràng trong tiếng trống thúc giục lòng người. Thống chế Điều bát là người dân tộc Khmer nên có năm đoàn nghệ thuật Khmer địa phương biểu diễn các điệu múa dân gian như múa rô-băm, múa trống sa-dăm, hát dù-kê... Cũng như các buổi cúng đình khác, năm Giáp Ngọ (2014), Đoàn hát bội Minh Khai ngày nào cũng trình diễn tuần tự các vở tuồng, như: “Thạch Kim kê đả hổ”, “Ngọc kỳ lân xuất thế”, “Tiêu Anh Phụng”, “Đào Tam Xuân”... Tất cả thể hiện bản sắc văn hóa Việt, Hoa, Khmer một cách hài hòa, rất mực tôn kính ông Nguyễn Văn Tồn.

Nguyễn Văn Tồn được vua nhà Nguyễn ban chức Thống chế Điều bát, người Trà Ôn tôn gọi là “Ông”, “Ông Lớn”, lăng gọi là “Lăng Ông”. Khu lăng mộ Thống chế Điều bát được xây dựng năm Canh thìn (Minh Mạng nguyên niên, 1820), rộng khoảng 8.000m2, cách thị trấn Trà Ôn 2km với nhiều cổ thụ quý như sao, dầu, dương, da cùng các loại hoa kiểng tạo không khí mát trong, thanh thoát. Khu lăng Ông gồm hai phần chính: đền và lăng mộ.

Lăng mộ Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn với kiểu mộ táng triều Nguyễn. 

Từ ngoài nhìn vào, cổng tam quan và hàng rào quanh lăng Ông Thống chế Điều bát được xây dựng năm 1963, phục dựng năm 1994. Hai bên cổng có cặp liễn đối: “Huân danh chiếu nhật tự cập thiên thu/ Đức nghiệp sơn hà tình thương tứ hải”, tạm dịch: “Muôn đời công danh sáng chói truyền tụng hằng ngày /Sự nghiệp với non sông yêu thương bốn biển”. Bên trong khuôn viên có bức bình phong vẽ hình long hổ. Trước chánh điện là võ ca và cột cờ cao 10m treo cờ Soái. Võ ca xây dựng năm 1953 bằng vật liệu nặng, có 4 cột tròn. Các đầu mái võ ca trang trí hình đồng tiền bằng sành. Mái võ ca lợp ngói âm dương, bên trên có tượng lưỡng long tranh châu, cặp cá hóa long. Hai bên cửa võ ca đặt tượng hai kỳ lân oai dũng. Nổi bật là tấm hoành phi sơn son thếp vàng với bốn đại tự “Hộ quốc an dân”.

Bàn thờ Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn. 

Chánh điện rộng khoảng 200m2, có tứ trụ nâng đỡ tạo thành mái hình bánh ít, xuyên câu. Mái lợp ngói âm dương. Đầu mái có hoa văn đồng tiền sành. Trên nóc có đôi rồng chầu nhật nguyệt. Có ba cửa vào chánh điện. Bên trên cửa chính có bảng khắc chữ nổi “Mỹ Thanh hội quán”. Hai bên cửa có cặp liễn đối diễn tả ý nghĩa Mỹ Thanh: “Mỹ đức tất hữu lâm châu liên bích hợp/ Thanh lý an nghiệp ngọc túy kim hòa năng” (Đất Thiện Mỹ luôn tốt đẹp như viên ngọc/Giồng Thanh Bạch được an cư lạc nghiệp). Giữa chánh điện là bệ thờ Hội đồng, gồm: ảnh Hồ Chủ tịch, Tả quân Lê Văn Duyệt, Bình Tây Đại nguyên soái Trương Công Định. Hai bên là lỗ bộ bằng đồng sáng bóng. Sau bệ thờ Hội đồng là hương án thờ Ông Thống chế Điều bát, gồm một khánh chạm trổ rất tinh xảo, một tráp gỗ sơn son thếp vàng đựng sắc phong, một chân dung Ông Dung Ngọc hầu Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn. Trên đầu khánh thờ là tấm bảng chữ vàng “Cung thánh chúc”, hai bên có 2 câu đối: “Vạn cổ uy danh lưu vương khí/ Thiên thu linh tích kiều anh phong” (Vạn năm còn uy danh tốt/ Muôn đời là vị anh hào).

Dung Ngọc hầu Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn tên thật là Thạch Duồng, sanh năm Quý Mùi (1763) tại làng Nguyệt Lãng, xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, dưới thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Tướng mạo khôi ngô, võ nghệ cao cường, tính tình cương trực, ông được Nguyễn vương phong chức cho trấn thủ ở Oai Viễn đồn (Trà Ôn) và đạo Trấn Giang (Cần Thơ), kiêm quân xuất hai phủ Trà Vinh và Mân Thít. Binh đoàn của ông chiến đấu dũng mãnh, xuất sắc. Năm 1787, ông theo chúa Nguyễn Ánh chạy sang Vọng Các (Bangkok, Thái Lan) tránh quân Tây Sơn. Năm sau, ông trở về nước, theo Lê Văn Quân đánh Tây Sơn ở bảo Ba Lai. Khi chúa Nguyễn Ánh trở về nước, ông được phân công trở về Trà Vinh, Mân Thít chiêu mộ dân binh (gồm toàn đồng bào Khmer), được giao quyền làm Nội thuộc Cai đội Thống quân, đóng đồn tại Cầu Kè, Trà Ôn, tiến hành khai khẩn đất hoang trồng trọt hoa màu. Năm 1810, Cao Miên xảy ra nội chiến, quân Xiêm nhân cơ hội xâm lấn bờ cõi xứ nầy, ông phụng lệnh triều đình theo đại quân Thoại Ngọc Hầu sang chiến đấu với quân Xiêm ở thành Lavek (Cao Miên). Thắng trận, uy danh ông vang lừng và được ban ở lại trấn thủ thành Nam Vang với trọng trách bảo hộ xứ Cao Miên. Một thời gian sau, ông được trở về trấn thủ Trà Ôn, Cầu Kè. Dịp này, ông cùng dân binh ra sức khai hoang mở đất. Năm Gia Long thứ 10 (1811), ông được triệu về kinh nhận ban thưởng và được thăng hàm Thống chế, tước Dung Ngọc hầu. Năm 1819, ông được triều đình bổ vào chức Điều bát nhung vụ, dẫn một đoàn dân binh Khmer đến Châu Đốc để cùng Thoại Ngọc hầu, Tuyên Trung hầu lo việc đào kinh Vĩnh Tế dài trên 100km. Đây là con kinh có vị thế chiến lược vô cùng quan trọng về kinh tế và quân sự ở biên giới Tây Nam đất nước... Do có công lao to lớn, Nguyễn Ánh ban cho ông “tứ danh” Nguyễn Văn Tồn.

Đoàn lân Lăng Ông trổ tài trước sự háo hức dự khán của bà con. 

Do lao tâm lao lực với đất nước, với nhân dân, ngày mùng 4 tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), Tiền quân Nguyễn Văn Tồn bị bệnh, mất tại Trà Ôn. Triều đình Huế phái đại thần mang phẩm vật vào làm lễ tế với nghi thức long trọng trong 3 ngày. Ông được triều đình sắc phong Thành hoàng Bổn cảnh Trung dũng Thiên trực. Nhân dân Trà Ôn thương tiếc, tôn kính ông như một bậc tiền hiền có công khai hoang mở cõi mảnh đất này. Năm 1828, vua Minh Mạng sắc phong ông là Trung đẳng thần, hàm ân Trung dũng Thiên trực, tước Dung Ngọc hầu.

Phía sau chánh điện là lăng mộ Ông Bà Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn, song táng theo kiểu “càn khôn hiệp đức”, được xây dựng năm 1820 có kết cấu bằng vôi và ô dước, mật ong, đường. Mộ Ông cao hơn mộ Bà. Trước mộ có tấm bình phong với hai câu đối: “Hoa di cộng ngưỡng/ Mân Quảng đồng tri ân” (Người Hoa, người Khmer đồng ngưỡng mộ/Người Việt, người Hoa đều nhớ ơn). Phu nhân Thống chế Điều bát được trọng vọng như vậy là vì lúc sinh thời đã giúp chồng nhiều công việc binh cơ và làm nhiều việc nghĩa đối với nhân dân trong vùng như xây dựng chùa, miếu, cấp gạo, thực phẩm cho dân nghèo... Bà được vua Minh Mạng ban mỹ tự Hiền thục phu nhân Thống chế đại quan chi thần vào năm 1828...

Lăng Ông Thống chế Điều bát được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1996. Hằng năm, cứ vào ngày mồng 2, mồng 3 và mồng 4 tháng Giêng âm lịch, lễ giỗ ông được tổ chức rất trọng thể, quy tụ hàng chục ngàn người dân xa gần đến cúng bái. Đây là ngày hội trùng vào dịp đầu xuân, vừa mang ý nghĩa cầu phước, vừa mang ý nghĩa văn hóa truyền thống dân gian. Lễ giỗ với các nghi thức cổ truyền: túc yết, chánh tế, tế tiền hiền – hậu hiền, xây chầu, đại bội và hát bội, tỏ lòng nhớ công lao tiền nhân trong bước đường khai hoang mở đất, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, là đạo nghĩa của dân tộc ta. Đến thị trấn Trà Ôn (huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long), đều nghe câu hát:

“Lịch thay cuộc địa Trà Ôn
Miếu Ông Điều Bát lưu tồn đến nay
Đất giồng Thanh Bạch xưa kia
Có đền Ông Lớn với bia lưu truyền”

Bài, ảnh: CÁT LỘC

Chia sẻ bài viết