03/05/2008 - 10:34

KỶ NIỆM 190 NĂM NGÀY SINH CÁC MÁC (5/5/1818 - 5/5/2008)

Kiên quyết đấu tranh với những khuynh hướng tư tưởng phản động và sai lầm để bảo vệ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin (Kỳ 1)

I. Khái quát thân thế và sự nghiệp Các Mác

Các Mác sinh ngày mồng 5 tháng 5 năm 1818 ở Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ. Cha của Mác là luật sư. Sau khi tốt nghiệp trung học, Mác vào học đại học tổng hợp ở Bon, rồi sau đó học ở trường đại học tổng hợp Béc-lanh. Mác học luật, lịch sử và triết học. Tháng 10 năm 1842, Mác trở thành chủ bút của Báo Rê-na-ri của giai cấp tư sản cấp tiến ở Đức hồi ấy. Trong các bài báo, Mác đã phê phán các chính phủ đương thời ở Đức, Anh, Pháp và bênh vực quyền lợi của nông dân, phát biểu những tư tưởng triết học của mình. Thời kỳ này, Mác đang chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản.

Tháng 6-1843, Mác kết hôn với Gienni Phôn Vextơphalen, người bạn gái hồi nhỏ của mình. Tháng 10-1843, Mác đến ở Pa-ri, thủ đô nước Pháp, tiếp tục viết báo. Tháng 9-1844, Mác gặp Ăng-ghen ở Pa-ri. Tình bạn vĩ đại và cuộc đấu tranh chung của hai người cho sự nghiệp của giai cấp công nhân bắt đầu từ đấy. Mác và Ăng-ghen tích cực tham gia sinh hoạt với các nhóm cách mạng ở Pa-ri, hai ông đấu tranh quyết liệt chống mọi thứ học thuyết của chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản và đã sáng lập ra lý luận và sách lược của chủ nghĩa xã hội vô sản cách mạng, hay là chủ nghĩa cộng sản. Năm 1845, Mác bị trục xuất khỏi Pa-ri vì bị coi là một nhà cách mạng nguy hiểm. Mác sang ở Bruy-xen, thủ đô nước Bỉ.

Mùa xuân 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập Liên minh những người cộng sản. Đó là tổ chức đầu tiên mang tính chất quốc tế của phong trào công nhân, gồm nhiều nhà lãnh đạo của các hội công nhân ở Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hung-ga-ri, Ba-lan, v.v... Theo yêu cầu của Đại hội lần thứ hai của Liên minh họp tháng 11-1847 ở Luân-đôn, thủ đô nước Anh, Mác và Ăng-ghen thảo bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, xuất bản tháng 2 năm 1848. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Năm 1848, Mác bị trục xuất khỏi nước Bỉ và về ở Pa-ri, rồi về ở Đức, xuất bản tờ Báo Rê-na-ri mới. Bị truy tố trước tòa án, Mác lại bị trục xuất và sang ở Pa-ri. Tháng 6-1849, Mác lại bị trục xuất khỏi Pa-ri và sang ở Luân-đôn cho đến khi mất. Ở Luân-đôn, Mác viết các tác phẩm tổng kết kinh nghiệm các cuộc đấu tranh cách mạng ở Pháp từ 1848 đến 1851, các tác phẩm về triết học, về chính trị kinh tế học. Năm 1867, quyển đầu tiên của bộ Tư bản ra đời. Bộ Tư bản nêu ra lý luận về sự phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản; nó chứng minh bằng lý luận hết sức chặt chẽ và chính xác “lịch sử đẫm máu của chủ nghĩa tư bản”, sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Bộ Tư bản xây dựng cơ sở lý luận khoa học cho chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội từ chỗ là “chủ nghĩa xã hội không tưởng” của các nhà tư tưởng trước Mác trở thành “chủ nghĩa xã hội khoa học”. Bộ Tư bản là ngọn đèn pha soi sáng cho cách mạng vô sản thế giới, vũ trang cho giai cấp vô sản lý luận và niềm tin không gì lay chuyển nổi về sứ mệnh lịch sử của mình, về sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Cùng với Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bộ Tư bản là bộ sách gối đầu giường của những người vô sản giác ngộ.

Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà trước hết, Mác là nhà cách mạng vĩ đại. Trước phong trào công nhân đang lên, Mác ra sức hoạt động thực tiễn. Năm 1864, ở Luân-đôn thành lập Hội liên hiệp quốc tế những người lao động, tức Quốc tế thứ nhất. Mác là người cổ vũ và lãnh đạo chủ chốt của Quốc tế thứ nhất. Mác đấu tranh chống các thứ chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân, chống bọn vô chính phủ và định ra sách lược cách mạng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.

Cuộc đời chiến đấu quyết liệt và không mệt mỏi chống mọi kẻ thù của giai cấp vô sản, chống lại các thứ trào lưu tư tưởng không vô sản và chống vô sản, sự làm việc rất khẩn trương mà công tác lý luận đòi hỏi, sự nghèo khổ của cuộc sống lưu vong cộng với bệnh tật và những đau thương trong gia đình làm cho sức khỏe của Mác ngày càng suy yếu. Ngày 2 tháng 12 năm 1881, Gienni mất. Đến ngày 14 tháng 3 năm 1883, Mác yên giấc nghìn thu trên chiếc ghế bành, trước bàn làm việc. Trong bức thư báo tin buồn cho bạn, Ăng-ghen viết: “Thế là cái trí tuệ mạnh mẽ nhất của Đảng ta đã ngừng suy nghĩ, trái tim mạnh mẽ nhất mà tôi chưa từng thấy đã ngừng đập mất rồi”. Và khi đọc điếu văn trước mộ Mác, Ăng-ghen nói: “Con người ấy mất đi, thật không sao có thể lường cho hết tổn thất đối với giai cấp vô sản chiến đấu của châu Âu và châu Mỹ, tổn thất đối với khoa học lịch sử. Không bao lâu, chúng ta sẽ cảm thấy nỗi trống trải sau cái chết của bậc vĩ nhân ấy”.

Ca ngợi tình bạn vĩ đại, mối quan hệ khăng khít, bền lâu giữa Mác với Ăng-ghen, Lê-nin viết: “Chuyện cổ kể lại những tấm gương rất cảm động về tình bạn. Nhưng giai cấp vô sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình đã do hai nhà bác học và chiến sĩ ấy sáng tạo ra, những quan hệ cá nhân giữa hai người đã vượt tất cả những chuyện cổ cảm động nhất của người xưa nói về tình bạn” (Mác - Ăng-ghen, chủ nghĩa Mác). Từ lúc còn trẻ, hai người đã có sự thống nhất chặt chẽ về tư tưởng và tình cảm, thường cùng làm việc với nhau mỗi khi ở gần nhau. Sau khi cuộc cách mạng 1848 ở Đức bị thất bại, Ăng-ghen phải đến làm việc ở Mansextơ, một thành phố công nghiệp của Anh lấy tiền giúp đỡ gia đình Mác. Còn Mác thì ở Luân-đôn. Trong ngót hai mươi năm trời xa nhau, mỗi ngày hai người đều viết cho nhau những ý nghĩ của mình về những sự biến chuyển chính trị và khoa học đương thời, cùng nhau trao đổi công việc. Mác rất tự hào về Ăng-ghen, về đạo đức và tài trí của Ăng-ghen.

Một mối tình sâu sắc đã gắn bó Mác với Gienni. Hai người biết nhau từ lúc còn nhỏ, cùng lớn lên bên nhau. Lúc đính hôn, Mác mới 17 tuổi. Sau bảy năm đợi chờ, hai người lấy nhau và từ đấy không bao giờ rời nhau trong cuộc đời xông pha bão táp, trong những năm tháng lưu vong, nghèo túng. Đức dịu hiền và lòng trung thành của Gienni đã an ủi cuộc đời sóng gió của Mác. Bà rất yêu mến phong trào công nhân. Cho đến lúc chết, bà vẫn tin theo chủ nghĩa cộng sản.

Mác là một người cha hiền từ, dịu dàng và rộng lượng. Các con rất yêu quý Mác. Mác có ba người con gái và hai con trai. Cái chết non của con gái đầu lòng và hai con trai làm cho Mác đau buồn ghê gớm và mất sức đi nhiều.

Mộ của Mác, cũng là mộ gia đình Mác, ở trên một ngọn đồi phía bắc thành phố Luân-đôn. Mác vĩnh viễn yên nghỉ ở đấy. Mác đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Cuộc đời và sự nghiệp của Mác đã hòa hợp một cách hữu cơ những đặc điểm của một nhà bác học vĩ đại, một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi, một người phát hiện đầu tiên những chân lý khoa học, một nhà chính luận cách mạng nồng nhiệt, một nhà chiến lược và sách lược vô sản sáng suốt, một nhà lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng vô sản. Mác nổi bật về đức tính cao cả của con người, giản dị, nhiệt tình và yêu đời, có ý chí bất khuất và năng lực lao động khác thường, can đảm và anh dũng. Đó là một cuộc đời đầy gian khổ nhưng vô cùng xán lạn, một mẫu mực về tính khoa học và tình cảm cách mạng cao cả.

Nguồn: BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG

(Xem tiếp kỳ 2)

Chia sẻ bài viết