01/06/2021 - 10:18

Gia tăng giải pháp ứng phó với sụt lún đất 

Sụt lún đất ở ÐBSCL xảy ra ngày càng nghiêm trọng, một trong những nguyên nhân được xác định là do khai thác nước ngầm quá mức. Ðể “thuận thiên” theo tinh thần Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ÐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (BÐKH), cần nhiều giải pháp thực thi đồng bộ hơn đối với vấn đề cấp bách này.

Theo các chuyên gia, sụt lún đất có thể khiến tình trạng ngập nghẹt ở TP Cần Thơ thêm trầm trọng.

Báo động

Theo nghiên cứu của các chuyên gia, ÐBSCL đang mất dần độ cao trong những thập kỷ qua. Tốc độ bồi lắng quá nhỏ, với lượng phù sa hạn chế do việc xây dựng đập ở thượng nguồn không bù lại được với tốc độ sụt lún, mức độ và tần suất lũ mang theo trầm tích giảm và tình trạng khai thác cát dọc theo các con sông. Các nguyên nhân này dẫn đến lún ròng và đây là vấn đề cấp bách ở ÐBSCL. Số liệu từ Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, ÐBSCL đang sụt lún 1 cm/năm, tại một số điểm có tốc độ trung bình lên đến 5,7 cm/năm cao hơn mực nước biển dâng (khoảng 3-5 mm/năm). Về nguyên nhân gây sụt lún bề mặt đất vùng ÐBSCL gồm 2 nhóm. Trong đó, tác nhân tự nhiên như: đặc điểm vùng với trầm tích trẻ, đang trong quá trình cố kết, nén chặt của các lớp trầm tích, hoạt động tân kiến tạo, quá trình bóc mòn, bồi tụ bề mặt địa hình..; tác nhân con người như: khai thác nước dưới đất quá mức, xây dựng đô thị, các công trình kết cấu hạ tầng, đường giao thông, quá trình tác động xung lực của hoạt động giao thông...

Sản xuất nông nghiệp vẫn đang là chủ lực của vùng ÐBSCL, trước tác động của BÐKH gây ra hạn hán, xâm nhập mặn, việc khai thác, sử dụng nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất là khó tránh khỏi. Tại một số khu công nghiệp, doanh nghiệp vẫn ưu tiên sử dụng nước ngầm, bởi chi phí sản xuất rẻ hơn nhiều so với mua nước máy hoặc bơm nước mặt phải tốn rất nhiều chi phí xây dựng hệ thống xử lý nước. Mặt khác, thâm canh nông nghiệp, tăng cường sử dụng hóa chất và ô nhiễm đã làm giảm khả năng tự làm sạch của các kênh, làm yếu dòng chảy. Ðiều này dẫn đến việc khai thác nước ngầm quá mức. Theo Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, khai thác nước ngầm ở ÐBSCL sử dụng cho sinh hoạt, cho canh tác nông nghiệp và sản xuất công nghiệp. Trung bình toàn khu vực ÐBSCL, 40% tổng lượng được khai thác sử dụng cho sinh hoạt, 40% cho canh tác nông nghiệp và 20% cho sản xuất công nghiệp.

Theo TS Hà Quang Khải, Viện Quản lý nước và BÐKH thuộc Trường Ðại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh, các số liệu báo cáo cho thấy, khai thác nước ngầm ở ÐBSCL đạt mức 2 triệu m3/ngày đêm. Tuy nhiên, có những mũi khoan của các hộ dân chưa được tính nên thực tế khối lượng nước ngầm khai thác ở ÐBSCL còn cao hơn. Việc gia tăng khai thác làm mực nước ngầm hạ thấp rất nhanh, tốc độ sụt lún cao…

Bảo vệ nguồn nước ngầm

Ðể quản lý tốt hơn tình trạng khai thác nước ngầm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 167/2018/NÐ-CP quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất (Nghị định 167). Bộ Tài nguyên và Môi trường đôn đốc tất cả các tỉnh, thành ÐBSCL khẩn trương triển khai phương án khoanh định và khuyến khích mỗi tỉnh, thành tự xây dựng bản đồ phân vùng hạn chế. Theo kế hoạch, đến tháng 2-2022, các tỉnh, thành ÐBSCL phải hoàn tất phương án khoanh định phân rõ từng vùng được phép khai thác nước ngầm và quy mô khai thác. Nhận thức rất rõ tầm quan trọng của Nghị định 167, các địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện. Ông Phạm Nam Huân, Trưởng phòng Tài nguyên khoáng sản, nước, khí tượng thủy văn và BÐKH thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường TP Cần Thơ, cho biết: Từ 2008 đến nay, thành phố có chủ trương những nơi nào có nguồn nước cấp đạt chất lượng và số lượng, không cấp phép khai thác nước ngầm. Thành phố đang triển khai thực hiện khoanh định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất theo Nghị định 167. Ðồng thời, triển khai các biện pháp kiểm soát việc khai thác nước ngầm trên địa bàn nhằm giảm thiểu tối đa sụt lún đất. Thành phố bố trí 16 trạm quan trắc động thái nước dưới đất ở 9 quận, huyện, thực hiện quan trắc định kỳ theo dõi diễn biến nguồn nước này…

Trong lĩnh vực quản lý tài nguyên nước và BÐKH, Việt Nam và Hà Lan là hai đối tác rất thân thiết. Với kinh nghiệm của Hà Lan, nơi có điều kiện tự nhiên cũng như quy mô diện tích và dân số tương đồng với vùng ÐBCSL đã hỗ trợ cho vùng thông qua các dự án. Tiếp nối những nỗ lực của dự án hợp tác nghiên cứu Hà Lan - Việt Nam Rise and Fall, dự án quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại khu vực ÐBSCL do Ðại sứ quán Hà Lan tài trợ, thực hiện 15 tháng, bắt đầu từ tháng 1-2020. Dự án triển khai thực hiện tại 4 địa phương, gồm: Cần Thơ, Kiên Giang, Sóc Trăng và Bến Tre nhằm hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách tìm ra các chiến lược phù hợp để giảm thiểu các thách thức trong quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm. Ðến nay, dự án đã hoàn thành khảo sát nghiên cứu điển hình tại 4 địa phương với các thông tin và phân tích cụ thể về hiện trạng sụt lún, quản lý và điều hành nước ngầm. Ông Laurent Umans, Bí thư thứ nhất, Ðại sứ quán Hà Lan tại Việt Nam, chia sẻ: “Chúng tôi mang những kiến thức, kinh nghiệm thực tế từ Hà Lan phối hợp với Chính phủ, các ban ngành trong giải quyết các vấn đề liên quan đến BÐKH kết hợp với các kinh nghiệm của các địa phương. Từ đó cùng phối hợp đưa ra những giải pháp hợp lý quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm cho khu vực. Ðây là cơ sở để đưa ra được những hành động, phối hợp nhiều ở quy mô khác nhau như địa phương, khu vực và đưa vào các chương trình nghị sự cụ thể…”.

Cùng với các giải pháp trên, theo các chuyên gia, các địa phương cần triển khai các giải pháp hạn chế khai thác nước ngầm, như: sử dụng nguồn nước mặt, nước mưa; sử dụng tiết kiệm, hợp lý nguồn nước ngầm; tăng cung cấp nước sạch cho người dân… Ths Nguyễn Hữu Thiện, Chuyên gia sinh thái nghiên cứu độc lập ÐBSCL, cho rằng: Việc khai thác nước ngầm quá mức khiến mực nước ngầm giảm nhanh dẫn tới tình trạng sụt lún đất. Vì vậy, trước mắt cần phải quản lý, khai thác nước ngầm có hiệu quả theo Nghị định 167. Về lâu dài, thực hiện theo định hướng Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ÐBSCL thích ứng với BÐKH. Trong đó, cải cách nền nông nghiệp, chuyển hướng sang nền nông nghiệp sạch hơn, giảm thâm canh, chú trọng đến chất lượng hơn số lượng để giảm bớt phân bón, thuốc trừ sâu. Từ đó, phục hồi lại khả năng tự làm sạch của sông ngòi để có thể sử dụng được như cách đây vài chục năm…

Bài, ảnh: LẠC MẪN

Chia sẻ bài viết