08/03/2008 - 22:52

Chị tôi

Truyện ngắn: NGÔ NGUYÊN

Quê tôi là một vùng quê nghèo khó, tuy không đến nỗi “chó ăn đá, gà ăn muối” nhưng bà con ở đó cũng phải vất vả quanh năm. Mấy công ruộng nhà làm không đủ ăn. Má tôi lại bịnh tật quanh năm. Ba tôi theo ghe làm bạn chài. Chị Hai tôi lúc đó mới chín tuổi, đã cáng đáng việc nhà như một người lớn. Đầu tiên là chị phải nghỉ học. Chị đang học lớp hai và chị rất ham học. Má nói “Con gái cũng không cần học, nhà nghèo quá, có bữa cơm là quý rồi!”. Nghỉ học, mỗi ngày chị Hai cắt cỏ mướn cho nhà ông Ba Đính, kiếm thêm chút tiền. Tôi thường lon ton chạy theo chị. Tánh tôi rắn mắc, hay leo trèo nghịch ngợm. Chị Hai vừa làm lại phải để mắt dòm ngó tới tôi. Một bữa, tôi thừa lúc chị không để ý, đã chạy một mạch ra sông. Tôi vừa bập bõm biết lội sông, nhưng bữa đó nước đang lớn, tôi bị cuốn theo dòng. Tôi giãy giụa, sặc nước, quên cả mấy động tác đập tay chân mà má tôi đã dạy. Tôi chìm xuống... rồi lại ngoi lên... Một cánh tay đã ôm chặt lấy tôi, một bàn tay túm chặt bâu áo. Chị Hai đưa tôi vô bờ. Tôi không còn hồn vía gì. Còn chị thì khóc. Vừa khóc, chị vừa căn dặn: “Một lần cho tởn tới già nghe! Mai mốt đừng ngu vậy nữa! Cưng còn nhỏ đâu lội sông một mình được. Chị hỏng méc má đâu. Nhưng cưng phải nghe lời chị”. Má tôi không hay biết chuyện tôi suýt chết đuối và tôi cũng “tởn tới già” luôn.

Bảy tuổi, tôi mới đi học. Ba lâu lâu về nhà vài bữa. Mấy bữa ba về tôi vui lắm. Bánh trái đầy nhà. Ba có vẻ cưng tôi hơn. Tôi học trong ngôi trường mới cất ở ấp bên. Chị Hai đưa rước tôi mỗi ngày hai lượt vì từ nhà đến trường phải qua bảy, tám cái cầu khỉ. Có bữa tôi thấy chị đứng thập thò ngó cô giáo dạy. Tôi hỏi “Chị muốn học lắm sao?”. Chị nói “Đâu có! Em là con trai cần phải học, chị phụ má làm công chuyện nhà cũng được rồi!”. Tôi ngây thơ hỏi “Rồi chị hỏng biết chữ, người ta cười cho coi!”. Chị Hai cốc đầu tôi một cái “Vậy thì mai mốt chị học lại với em. Nhưng cưng phải học giỏi mới làm thầy được nghe!”. Từ đó, mỗi đêm, tôi đem tập ra học cùng chị. Tôi học rất giỏi nên chị Hai cũng được học theo tôi cho tới khi đã làm được bốn phép tính.

Ba tôi mất năm tôi mười một tuổi. Cả ghe lưới chỉ còn một người sống sót. Má tôi khóc than vật vã bịnh luôn cả tháng. Bà con nội ngoại không được mấy người, vả lại, ai cũng nghèo. Chị tôi lại trở thành trụ cột gia đình. Chị lặn lội trên đồng. Chị lặn hụp dưới sông. Trong xóm kêu chị là con “rái cá”. Má không còn sức lao động, chỉ ra vô làm việc nhà. Có lẽ do phải tần tảo lao động từ nhỏ nên chị Hai càng lớn càng đậm chắc. Chị không thon thả như mấy cô con gái cùng xóm. Chỉ mái tóc chị thì dường như được ông trời bù đắp - nó đẹp lạ lùng. Những lúc chơi đùa bên chị, chị thường hỏi “Lớn lên, cưng thích làm gì?”. Tôi nghĩ tới má, cứ tối ngày uống thuốc. Tôi đáp “Em muốn làm bác sĩ để trị bịnh cho má, cho chị nữa!”. Chị tôi cười buồn: “Vậy thì phải ráng học cho thiệt giỏi. Làm bác sĩ hỏng dễ đâu!”.

Suốt thời gian tôi học cấp hai, chị Hai chăm chút tôi như một người mẹ. Chị chỉ biết đọc, biết viết và làm được mấy phép tính đơn giản nên chẳng hiểu gì bài vở của tôi lúc nầy. Chị nói “Cái nào hỏng hiểu, cưng phải hỏi thầy cô. Chị đâu biết gì, cưng đừng để thua kém bạn bè, má buồn lắm!”. Tôi chọc chị: “Chị không biết em học giỏi nhứt lớp sao? Chỉ cần chị nấu cơm cho em thôi, đâu cần chị dạy”. Tôi, ngoài giờ học ở trường lại cắm đầu cắm cổ vào bài tập ở nhà. Tôi rất ham học và chỉ coi trọng việc học. Bao nhiêu tấm giấy khen tôi đem về là bấy nhiêu niềm vui và tự hào trong lòng chị. Cũng có khi tôi thấy mình ích kỷ quá! Chỉ mải lo học mà không giúp ích được gì trong công việc nhà. Nhưng mỗi khi tôi định rớ tay vào việc gì thì chị lại trừng mắt: “Để đó cho chị. Cứ lo học đi!”.

Tôi được tuyển thẳng vào lớp mười vì đã chín năm liền là học sinh giỏi. Chị tôi cười ra nước mắt, ôm chầm lấy tôi. Bàn tay chị cứng còng, thô ráp, không như hai bàn tay mềm mại của tôi. Má cũng khóc. Má thắp nhang bàn thờ ba rồi nói: “Thằng Minh nó học giỏi lắm ông à! Nó làm nở mặt nở mày gia đình mình rồi đó!”. Ngày nhập học đầu tiên, chị Hai đưa tôi đi. Chị quyết tâm muốn nhìn thấy ngôi trường đẹp nhứt huyện ra sao và tôi bước vào đó oai phong thế nào. Qua sông, chị em tôi đi bộ. Con đường tới trường cũng phải ba cây số. Nhìn tôi quệt mồ hôi trên trán, chị thở dài. Mấy ngày sau khi nhập học, trưa hôm ấy khi tôi về đến nhà đã thấy chiếc xe đạp mới tinh dựng chình ình trước sân nhà. Tôi mừng quýnh lên “Trời đất! Xe của ai vầy nè! Chị ơi!”. (Lạ một điều, trong những lúc giựt mình hay gấp gáp việc gì, tôi cũng đều kêu chị). Chị Hai từ trong nhà bước ra. Tôi ngỡ ngàng nhìn mái tóc chị, nó đã cụt ngủn rồi. Tôi ngờ ngợ, chưa hỏi được gì, chị đã cười rất tươi. “Chị cứ lặn hụp dưới sông hoài, tóc dài quá nên cắt bớt cho tiện”. Tôi không quan tâm tới mái tóc chị nữa mà quay qua chiếc xe: “Của ai vậy chị?”. Chị cười: “Của cưng chớ của ai. Đi học xa quá phải có xe chớ!”. Tôi mừng quýnh nhảy tưng lên. Tôi với chị đã từng tập chạy xe đạp - chiếc xe của nhà bác Tám Thôn. Nhưng để có riêng một chiếc cho mình, thì chỉ là trong mơ. Tôi leo lên xe, lượn một vòng trên sân, quên cả mọi thứ xung quanh. Quên cả cái đầu tóc củn cỡn của chị Hai.

* * *

Tôi tốt nghiệp trung học phổ thông với điểm cao. Thi vào trường Y, vừa nhận được kết quả đậu thì má mất. Tôi không chấp nhận được sự thật nầy. Tôi muốn học Y khoa để làm bác sĩ, để trị bịnh cho má. Nhưng má đã bỏ tôi đi sớm quá. Chị Hai dường như không khóc. Gương mặt chị già xọm đi. Ánh mắt khô khốc xa xăm. Chôn cất má xong, tôi đòi nghỉ học, đi làm. Chị lại trừng mắt nhìn tôi, giận dữ: “Em điên rồi sao? Em đã hứa với má sẽ học để làm bác sĩ. Bây giờ em muốn má chết không yên sao?”. Tôi cãi lại: “Bây giờ, chị còn có một mình. Nếu em đi học, chị phải cực khổ mười lần”. “Thây kệ chị. Chị lo được. Em chỉ cần học giỏi là chị vui rồi. Đừng nghĩ quẩn quanh nữa”.

Chị đưa tôi qua sông vào một sáng mờ sương. Kể từ hôm nay, tôi sẽ xa nhà, xa chị. Chị ngồi bơi xuồng mà ánh mắt buồn bã, xa xăm. Tôi cũng buồn. Qua bao năm tháng sống bên nhau. Tôi cứ như một đứa trẻ thơ hết đòi cái nầy lại đòi cái khác. Tôi chưa làm cho chị được điều gì còn chị thì đã làm tất cả cho tôi. Mới tháng trước, có đám dạm hỏi, chị lắc đầu nguầy nguậy. Tôi cười chọc chị “Sao chị không ưng? Người ta cũng được mà!”. Chị nhìn tôi “Chị phải lo cho em xong đại học. Lấy chồng rồi, ai nuôi em!”. Qua sông, chị đưa tôi đi thêm một đoạn đường trước khi người xe ôm đến đón. Nắng sớm trải một màu lụa hồng trên cánh đồng lúa đang ngậm sữa. Mấy làn khói mỏng manh tỏa ra từ những mái nhà còn ẩn hiện trong sương làm tôi thấy quê hương mình đẹp biết bao. Nhìn lại người chị thân yêu, tôi tự hứa với lòng sẽ học hành thật tốt. Tôi phải xứng đáng với những gì chị đã cho tôi...

* * *

Mấy năm đại học đã quay tít tôi như cái kim gió đồng hồ, không ngơi nghỉ. Tôi chỉ học và học. Mỗi năm, tôi về quê hai lần vào dịp Tết và ngày giỗ má. Hè, tôi tranh thủ dạy kèm và học thêm ngoại ngữ. Tôi vui vì những thành tích của mình. Ở quê, chị tôi vẫn một nắng hải sương tảo tần kiếm tiền nuôi tôi ăn học. Tôi yêu Ngọc, bạn học cùng khóa và định khi ra trường sẽ cưới. Ngọc theo tôi về quê được hai lần và trong lòng cô gái Sài Gòn nầy, dường như không mặn mòi gì lắm với quê tôi.

Ra trường được bốn tháng thì chúng tôi cưới. Đám cưới tổ chức ở Sài Gòn cho tiện. Tôi thấy chị buồn nhưng cũng chìu ý tôi. Chị đã bán hết đồ nữ trang của mình để sắm đồ trang sức cho cô dâu. Chị vui mừng trước thành công và hạnh phúc của tôi. Những lần lên thăm chúng tôi, chị đều tay xách nách mang những quà bánh ngày xưa tôi thích. Ngọc cằn nhằn: “Ở Sài Gòn thứ gì không có. Có tiền thì mua được. Chị xách lên nhiều cho mệt”. Ngọc chỉ thương yêu tôi và có vẻ không mặn mòi gì với chị.

Tôi mở phòng mạch tư, công việc vẫn trôi chảy vì tôi là một bác sĩ giỏi. Trong lần giỗ má, tôi đem tiền về cho chị cất lại căn nhà tường theo tâm nguyện của má ngày xưa. Chị khóc vì vui. Ngày xưa, tôi thường hỏi chị thích gì, chị nói thích có căn nhà tường sạch sẽ. Tôi thường nói đùa: “Em không lấy vợ đâu. Em sẽ sống với chị tới già, nghe chị?”. Bây giờ, chị đã có nhà tường. Nhưng tôi không giữ được lời hứa sẽ sống bên chị trọn đời.

Ngọc chuẩn bị sanh đứa con đầu, chị tất tả lên nuôi. Nhìn chị không quen với những tiện nghi vật chất trong nhà, tôi buồn lắm. Chị đã già nhiều hơn tuổi. Chị đã bước vào cái tuổi ở quê người ta nói “lỡ thời”. Tôi đề nghị: “Hay chị lên đây ở luôn với tụi em, như vậy tiện hơn nhiều”. Chị lắc đầu: “Còn mồ mả ba má ở dưới. Chị không quen cảnh sống trên nầy, ngột ngạt quá!”. Ngọc cũng muốn chị lên ở với chúng tôi, nhưng không phải vì thương chị. Ngọc chỉ muốn có một người coi sóc nhà cửa mà không phải phập phồng. Ngọc sanh được hai tháng, chị lại về quê, về với mảnh vườn ao cá và một góc quê hương.

* * *

Từ khi Ngọc sanh cháu NiNa, chúng tôi chưa về thăm quê lần nào. Tết nầy, tôi dự tính sẽ về quê ăn Tết. Tôi báo tin, chị tôi mừng lắm. Ngọc tuy không thích về nhưng vì yêu tôi, nên chìu ý.

Chúng tôi về đến đầu con đường đất dẫn đến bờ sông thì chị đã đón ở đó tự bao giờ. Chị bồng cháu để Ngọc di dễ dàng hơn. Trong ánh nắng nhạt của buổi chiều tà, tôi bỗng nhận ra quê hương mình đẹp quá. Những đám mây trắng lững lờ bay. Mấy con diều giấy đủ màu đang lượn lờ trong gió. Trong bóng chiều bảng lảng, tôi chợt thấy mái đầu chớm bạc của chị, thấy gương mặt đã héo hắt bước vào tuổi già với đôi mắt đầy u uẩn. Bỗng, tôi bất chợt nhớ tới chuyện ngày xưa: “Bây giờ, chị nói thiệt em nghe, sao hồi đó chị lại cắt tóc?”. Chị tần ngần chút rồi đáp “Chuyện lâu rồi, bây giờ nói cũng không sao. Lúc đó, chị bán tóc để mua xe đạp cho em vì không đành để em đi bộ”. Tôi thảng thốt nhìn chị. Mà không - Một bà tiên mới đúng. Chị tôi là một bà tiên, sao lại có một đứa em vô tình như tôi được. Tôi nhìn Ngọc. Lần đầu tiên từ khi gặp chị, tôi thấy ánh mắt cô nàng như dịu dàng trìu mến hơn và dường như có mấy giọt nước đang ngân ngấn trong đôi mắt ấy.

Chia sẻ bài viết