19/03/2025 - 22:40

Cha mẹ tặng, cho con quyền sử dụng đất 

Hỏi: Trong quá trình chung sống vợ chồng, chúng tôi đã tạo dựng được một số tài sản, trong đó có khoảng 2.000m2 đất. Nay chúng tôi muốn tặng, cho quyền sử dụng đất cho 1 trong 4 người con thì có được hay không?

Trần Văn H (phường Tân Lộc, quận Thốt Nốt)

Luật sư Hồ Thị Thu Trang, Ðoàn Luật sư TP Cần Thơ, trả lời:

Theo quy định pháp luật, sẽ xảy ra 2 trường hợp: quyền sử dụng đất là tài sản chung của cha, mẹ; quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình gồm cha mẹ và các người con.

Quyền sử dụng đất là tài sản chung của cha, mẹ: căn cứ khoản 1, Ðiều 29, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Ðồng thời, tài sản chung vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

Theo Ðiều 35, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, vợ chồng sẽ thỏa thuận về việc định đoạt, sử dụng tài sản chung và khi định đoạt tài sản chung là bất động sản (hay còn gọi là nhà, đất) phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng. Do đó, nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì khi cha mẹ muốn tặng, cho con đất thì chỉ cần hai vợ chồng tự thỏa thuận với nhau mà không cần xin ý kiến hay chữ ký của bất kỳ người nào khác kể cả những người con khác.

Như vậy, nếu nhà, đất là tài sản chung của cha mẹ thì khi muốn tặng, cho 1 trong số những người con, cha mẹ chỉ cần thỏa thuận với nhau, cùng nhau quyết định mà không cần phải xin ý kiến cũng như không cần chữ ký của những người con khác.

Trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình gồm cha mẹ và các con: tài sản chung của hộ gia đình được hiểu là tài sản thuộc quyền sử dụng, sở hữu và định đoạt của toàn bộ người của hộ gia đình đó. Cụ thể, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở (gọi tắt là sổ đỏ) phải ghi “hộ ông/hộ bà/hộ ông bà/hộ...” thì nhà, đất này thuộc sở hữu của cả hộ gia đình khi có các điều kiện: có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; sống chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất...; có quyền sử dụng đất chung.

Căn cứ khoản 11, Ðiều 30, Nghị định 101/2024/NÐ-CP, các trường hợp cần sự đồng ý của tất cả thành viên trong hộ gia đình nếu có chung quyền sử dụng đất như sau:

Trường hợp thay đổi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo thỏa thuận của các thành viên hộ gia đình hoặc của vợ và chồng thì nộp văn bản thỏa thuận về việc thay đổi đó.

Trường hợp thay đổi quyền sử dụng đất của các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì văn bản thỏa thuận phải thể hiện thông tin thành viên của hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Trường hợp thay đổi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của vợ và chồng thì cơ quan giải quyết thủ tục có trách nhiệm khai thác, sử dụng thông tin về tình trạng hôn nhân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, nếu không thể khai thác được thông tin về tình trạng hôn nhân thì nộp bản sao hoặc xuất trình giấy chứng nhận kết hôn hoặc ly hôn hoặc giấy tờ khác chứng minh về tình trạng hôn nhân.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3, Ðiều 27, Luật Ðất đai năm 2024, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực...

Như vậy, nếu đất là tài sản chung của hộ gia đình thì khi cha mẹ tặng, cho đất cho 1 trong số những người con thì cần có sự đồng ý của những người con còn lại. Nếu những người con không thể ký vào hợp đồng tặng, cho thì phải có văn bản ủy quyền hoặc văn bản đồng ý tặng, cho được công chứng hoặc chứng thực.

C.H

 

Chia sẻ bài viết