30/03/2020 - 07:29

Đi qua vùng đất khát

Bài cuối: Cần gấp những giải pháp căn cơ 

ĐBSCL là vùng sản xuất cây ăn trái  lớn nhất nước với hơn 300.000ha, chiếm khoảng 58% diện tích cây ăn trái toàn miền Nam. Những năm gần đây, hạn hán, xâm nhập mặn, bão lụt với tần suất ngày càng nhiều và không theo quy luật đã gây những tổn thất lớn cho con người, đất đai và cây trồng. Do đó, hơn bao giờ hết, một giải pháp căn cơ đang là vấn đề đặt ra cấp thiết để đồng bằng hạn chế tổn thương trong những năm tiếp theo.

Người dân cù lao Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy, Tiền Giang) chở nước về cứu vườn sầu riêng.

►Cần có chương trình cấp quốc gia về dự trữ nguồn nước

Tiến sĩ Võ Hữu Thoại, Phó Viện trưởng Viện Cây ăn quả Miền Nam, cho biết: Hiện đã có 11/13 tỉnh, thành phố ở ĐBSCL bị ảnh hưởng xâm nhập mặn với các mức độ khác nhau và các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang đã công bố tình huống khẩn cấp về hạn, mặn để đưa ra các giải pháp ứng phó. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (NN&PTNT), khoảng 130.000ha  vườn cây ăn trái trong vùng ĐBSCL có khả năng bị ảnh hưởng hạn, mặn, tương đương 39,1% tổng diện tích vườn cây ăn trái toàn vùng. Cụ thể: Tiền Giang 28.360ha, Bến Tre 12.350ha, Long An 12.900ha, Trà Vinh 12.350ha, Vĩnh Long 8.580ha, Sóc Trăng 13.650ha..., với nhiều chủng loại bị ảnh hưởng, như: xoài, chuối, thanh long, nhãn, chôm chôm, sầu riêng...            

Theo Cục Trồng trọt, nếu tình hình mặn diễn biến gay gắt và kéo dài đến hết tháng 3 thì diện tích vườn cây ăn trái có khả năng bị hạn, xâm nhập mặn là 80.600ha (khoảng 23% tổng diện tích cây ăn quả toàn vùng). Đến nay, có một số vườn bưởi, cam, sầu riêng tại Sóc Trăng, Cà Mau bị thiệt hại; nhiều vườn cây ăn trái và sản xuất cây giống tại Bến Tre, Tiền Giang đã hết nước ngọt tưới, phải vận chuyển từ nơi khác về để tưới cây. Ngoài ra, còn có 23.000ha lúa đông xuân 2019-2020 đã bị ảnh hưởng do hạn, mặn; trong đó thiệt hại mất trắng (trên 70%) là trên 9.300ha, gồm: Trà Vinh trên 3.000ha, Long An 2.600ha, Kiên Giang khoảng 900ha, Cà Mau khoảng 500ha, Sóc Trăng trên 2.300ha.

Tiến sĩ Võ Hữu Thoại cho biết, Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh của hiện tượng biến đổi khí hậu và ĐBSCL là nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến các lĩnh vực du lịch, tài nguyên nước, môi trường sinh thái, nhưng nông nghiệp là lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề, rất khó đối phó và khắc phục trong thời gian ngắn. Do đó, cần có chương trình cấp quốc gia về dự trữ nguồn nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp cho vùng ĐBSCL. Tiếp tục đầu tư các hệ thống đê bao, xây dựng hệ thống tưới tiêu (thủy lợi nội đồng) hợp lý nhằm ứng phó với hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn, cũng như phòng chống ngập úng. Tăng cường năng lực cho hệ thống cảnh báo và dự báo thời tiết, khí hậu, thủy hải văn và nông nghiệp.

“Xác định các giống cây trồng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đánh giá mức độ ảnh hưởng và đề xuất hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu chọn lọc, lai tạo những dòng/giống cây trồng chống chịu với những điều kiện bất lợi của môi trường như hạn, phèn, mặn, ngập. Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường và sự phát sinh, phát triển sâu bệnh hại trên cây ăn quả và biện pháp quản lý tổng hợp” - Tiến sĩ Võ Hữu Thoại đề xuất.    

►Nên tách bạch nước ngọt sinh hoạt và sản xuất

Trước thực trạng hạn hán và xâm nhập mặn đang diễn ra gay gắt, ThS. Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL cho rằng, nguyên nhân chính là do từ đầu năm đến tháng 9-2019 hiện tượng El Nino diễn ra trên toàn lưu vực sông Mekong làm cho lượng mưa thấp nên mực nước sông Mekong hạ thấp kỷ lục ngay trong mùa lũ. Thứ hai, về thủy điện Mekong, trong những năm bình thường thì ít ảnh hưởng lượng nước, nhưng khi gặp tình hình cực đoan (hạn và lũ) thì sẽ làm gia tăng cực đoan. Thứ ba là nước biển dâng tích lũy. Dù nước biển dâng với tốc độ chậm chỉ khoảng 3mm/năm, nhưng tích lũy nhiều năm cũng rất đáng kể. Thứ tư, sụt lún ĐBSCL làm cho mặt đất thấp dần, dễ bị ảnh hưởng của nước biển hơn. Thứ năm, hạn mặn của ĐBSCL hiện nay gay gắt hơn ngày xưa cũng một phần vì hệ thống tự nhiên của đồng bằng đã bị thay đổi. Đê bao khép kín khắp nơi, kể cả ở miệt vườn, chiếm không gian hấp thu lũ, nước lũ ít vào được ruộng, vườn nên tăng ngập các thành phố và chảy tuột ra biển trong mùa nước. Đến mùa khô, khi dòng Mekong yếu thì bản thân ĐBSCL đã không còn nhiều nước, nên mặn lấn sâu hơn.

Theo ThS. Nguyễn Hữu Thiện, cần phân biệt năm cực đoan và tình hình chung, không nên vội vã “bi đát hóa” rằng ĐBSCL ngày càng cạn kiệt nguồn nước, cho rằng đây là tình hình chung trong tương lai rồi hốt hoảng. Nếu lấy những năm cực đoan như năm nay và năm 2016 làm chuẩn cho chiến lược lâu dài sẽ bị quá đà, gây ra nhiều tác dụng phụ tiêu cực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, những sự kiện cực đoan sẽ diễn ra với tần suất cao hơn, nhưng dù sao những năm cực đoan cũng không phải là tình hình chung cho tất cả các năm. “Trong tình huống khô hạn, việc tích xả của các đập thủy điện làm chậm đường đi của nước, làm cho hạn cực đoan càng cực đoan hơn. Với những năm cực đoan thì cách ứng phó tốt nhất là né tránh thời vụ để tránh thiệt hại. Trong khi ứng phó với cực đoan hạn mặn, cũng không nên quên rằng có thể có cực đoan theo chiều ngược lại vào những năm sau. Nếu trong tương lai, ĐBSCL càng có nhiều đê bao khép kín thì lũ về, sẽ không có không gian để lan tỏa, lũ sẽ cực kỳ hung hãn và gây ra tác hại khó lường trong năm cực đoan lũ cao. Tình hình năm nay lộ ra một điểm yếu quan trọng là vấn đề nước sinh hoạt” - ThS. Nguyễn Hữu Thiện nói.

Theo ThS. Nguyễn Hữu Thiện, trong bối cảnh này, việc giải quyết nhu cầu nước ngọt cho sinh hoạt của người dân ở những vùng có thể ảnh hưởng mặn là ưu tiên số một. Đầu tiên, cần rạch ròi giữa nguồn nước cho sinh hoạt và nguồn nước cho sản xuất. Không nên lẫn lộn và nhập chung nhu cầu nước sinh hoạt vào các công trình thủy lợi ngăn mặn trữ ngọt cho sản xuất. Các công trình phục vụ sản xuất khó có thể đáp ứng tiêu chuẩn cho nước sinh hoạt; đồng thời, làm sông ngòi cả vùng rộng lớn bị chảy yếu hoặc không chảy nên trong nước thiếu ôxy, mất khả năng tự làm sạch, tích tụ ô nhiễm vô cơ và hữu cơ từ phân bón, thuốc trừ sâu, nguồn công nghiệp, sinh hoạt và các nguồn khác. Nếu tách nước sinh hoạt ra khỏi nước sản xuất thì nhu cầu này sẽ nhỏ hơn rất nhiều và dễ giải quyết hơn là khi nhập chung lẫn lộn. Nước cho sinh hoạt ở những vùng mặn có thể giải quyết được bằng kinh nghiệm dân gian như lu chứa nước mưa, ao hồ của gia đình, cộng đồng và bằng các tiến bộ công nghệ mới như bốc hơi nước, màng lọc na-nô, máy lọc nước biển. Nên nghĩ tới việc kết hợp sử dụng năng lượng mặt trời cho các thiết bị này.

Về lâu dài, ThS Nguyễn Hữu Thiện cho rằng: Nghị quyết 120 của Chính phủ chính là lời giải về chiến lược lâu dài cho ĐBSCL. Chìa khóa trung tâm của vấn đề ĐBSCL là chuyển hóa nền nông nghiệp ĐBSCL từ thuần túy sản xuất theo số lượng sang tập trung vào chất lượng, ít hơn nhưng sạch hơn, giá trị cao hơn, đa dạng hơn. Nếu chỉ miệt mài tăng sản lượng sản phẩm thô, giá rẻ thì không thể tiến xa. Nghị quyết cũng xác định xoay trục chiến lược sang ưu tiên thủy sản, hoa màu cây trồng khác, rồi mới tới lúa. Không cần thâm canh 3 vụ, ĐBSCL vẫn dư sức đảm bảo lượng lúa gạo cho an ninh lương thực quốc gia. Ưu tiên số một bây giờ là chất lượng, thu nhập. Đồng thời, cần xem nước mặn, nước lợ, nước ngọt đều là tài nguyên chứ không chỉ là nước ngọt phục vụ tối đa hóa sản lượng lúa như trước đây.

Cụ thể, theo ThS Nguyễn Hữu Thiện, cần giảm bớt 1 vụ lúa ở vùng đầu nguồn để hấp thu nước lũ, kèm theo là phù sa và tôm cá, vào ruộng đồng để cải thiện đất đai, tăng lượng nước, cân bằng mặn - ngọt trong mùa khô. Với vùng ven biển thì nên chuyển dần sang canh tác theo mặn, theo mùa, phù hợp với quy luật thiên nhiên. “Hiểu và thích ứng với quy luật tự nhiên thì chúng ta đỡ tốn sức, loay hoay mệt nhoài suốt năm chống lũ mùa này, chống hạn mặn mùa kia, mà còn tận dụng được cơ hội trong đó. Thuận theo tự nhiên sẽ phục hồi sức khỏe của hệ tự nhiên, tăng sức đề kháng của đồng bằng với những biến động thất thường về thời tiết, khí hậu” - ThS. Nguyễn Hữu Thiện nói.

Bài, ảnh: Bình Nguyên

Chia sẻ bài viết