Trong bối cảnh quan hệ xuyên Đại Tây Dương ngày càng xa cách, giới chuyên môn cho biết châu Âu đang cân nhắc tương lai mà họ chưa từng nghĩ đến trước đây một khi không có sự đảm bảo an ninh từ siêu cường quân sự Mỹ.

Các căn cứ quân sự của Mỹ tại châu Âu. Ảnh: Pinterest
Kể từ khi trở lại Nhà Trắng vào tháng 1, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đưa ra loạt thay đổi chính sách, đặc biệt đảo ngược lập trường của Washington trong 3 năm qua với Ukraine. Mặc dù châu Âu sớm chuẩn bị tâm lý cho việc Tổng thống Trump từ chối tiếp tục viện trợ quân sự cho Kiev, nhưng họ không lường trước việc nhà lãnh đạo Mỹ chia sẻ quan điểm của Nga rằng Kiev phát động chiến tranh và Tổng thống Ukraine Volodymr Zelensky là một “nhà độc tài”.
Tất cả diễn biến này làm dấy lên lo ngại nước Mỹ “đổi phe”, dẫn tới cơn ác mộng về sự sụp đổ của liên minh xuyên Đại Tây Dương vốn hình thành trong Chiến tranh thế giới thứ 2 để giữ “ngọn lửa tự do” luôn cháy sáng ở châu Âu. “Chúng ta phải thuyết phục Mỹ rằng tương lai của Ukraine là câu hỏi quyết định không chỉ với Kiev mà còn cả an ninh châu Âu, hệ thống quốc tế và vị thế của Washington” - Tổng thống Phần Lan Alexander Stubb nêu ý kiến.
Kịch bản thiếu Mỹ
Từ khi xung đột Ukraine bùng phát vào tháng 2-2022, Bộ Quốc phòng Mỹ đã triển khai hơn 20.000 lực lượng bổ sung tới châu Âu để ứng phó cuộc khủng hoảng, nâng tổng số quân nhân Mỹ đồn trú lên hơn 100.000 người trên khắp châu Âu. Cụ thể, Lầu Năm Góc dưới chính quyền Tổng thống Joe Biden đã mở rộng nhóm tác chiến tàu sân bay, triển khai thêm các phi đội máy bay chiến đấu và máy bay vận tải/tiếp nhiên liệu; các lực lượng sẵn sàng đổ bộ và lữ đoàn viễn chinh Thủy quân lục chiến. Cơ quan này cũng tăng cường thêm Bộ tư lệnh Quân đoàn, Bộ tư lệnh Sư đoàn, Đội tác chiến Lữ đoàn bộ binh (IBCT), Đội tác chiến Lữ đoàn thiết giáp (ABCT), Tiểu đoàn Hệ thống tên lửa pháo binh cơ động cao (HIMARS) và nhiều đơn vị hỗ trợ cho sở chỉ huy tiền phương của các quân đoàn hiện đồn trú hoặc triển khai tới châu Âu.
Giả dụ Nga mở một cuộc tấn công nhắm vào một quốc gia Liên minh châu Âu (EU), Mỹ dưới các nguyên tắc của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) có thể nhanh chóng bổ sung thêm 200.000 quân tiếp viện. Trường hợp mất đi nguồn lực này, đó sẽ là tính toán khác đối với châu Âu. Theo các chuyên gia quân sự, việc Mỹ rút lui sẽ đẩy EU vào bất ổn an ninh nghiêm trọng trong bối cảnh quân đội Nga lớn mạnh, giàu kinh nghiệm và được trang bị tốt hơn nhiều tính từ thời điểm Mát-xcơ-va mở chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukarine. Theo báo cáo của Viện nghiên cứu Bruegel có trụ sở ở Bỉ và Viện Kinh tế Thế giới Kiel tại Đức, sức mạnh hỏa lực của 300.000 binh sĩ Mỹ nếu được triển khai đầy đủ sẽ cao hơn nhiều so với 300.000 binh sĩ châu Âu. Đặc biệt về chuyên môn, Lầu Năm Góc có quy mô quân đoàn với năng lực điều hành và kiểm soát chặt chẽ, thống nhất hơn cả chỉ huy chung của NATO. Quan trọng nữa là binh sĩ Mỹ được hỗ trợ bởi các đơn vị giàu kinh nghiệm mà quân đội châu Âu không có, bao gồm lực lượng không quân chiến lược và tài sản vũ trụ.
Trong kết luận chung, các chuyên gia cho biết không thể thay thế lực lượng Mỹ với binh lính châu Âu theo tỷ lệ 1:1. Nếu muốn thu hẹp khoảng cách về sức mạnh chiến đấu, châu Âu sẽ phải huy động thêm hơn 300.000 lính hoặc nhanh chóng tăng cường phối hợp quân sự. Để đối phó Nga trong tình huống xung đột, cựu lục địa không chỉ phải bổ sung nhiều vũ khí mà còn cải thiện hệ thống vận tải, truyền thông và tình báo. Ngoài ra, theo các nhà nghiên cứu, EU cần sắm thêm ít nhất 1.400 xe tăng và 2.000 xe bọc thép chở quân. Số lượng này nhiều hơn khả năng của các lực lượng vũ trang của Đức, Pháp, Ý và Anh cộng lại. Về năng lực trên không, liên minh cần mở rộng quy mô sản xuất máy bay không người lái tầm xa với chỉ tiêu hàng năm khoảng 2.000 chiếc.
Lựa chọn cho châu Âu
Tuy chưa có quyết định nào về việc thay đổi triển khai lực lượng, nước Mỹ dưới sự chỉ đạo của Tổng thống Trump đang xem xét lại sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Mới đây, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth trong bài phát biểu gây chấn động châu Âu đã đưa ra nhiều ám chỉ về sự gián đoạn lớn đối với NATO - cấu trúc an ninh đã tồn tại và bảo vệ châu Âu trong 80 năm qua.
Theo lời của Bộ trưởng Hegseth, châu Âu không nên đối xử với nước Mỹ như một “kẻ ngốc” bằng cách bắt Washington chịu trách nhiệm về tình trạng quốc phòng của mình. Ông cũng nói thêm rằng phạm vi hiện diện của quân đội Mỹ ở cựu lục địa là rất quan trọng và là một phần trong cuộc thảo luận lớn hơn phản ánh nhu cầu của các bên, mức độ đe dọa, vị thế của Mỹ và quan trọng nhất là khả năng tăng cường năng lực của các đồng minh EU. Đã đến lúc châu Âu đầu tư vào quốc phòng vì họ không thể cứ cho rằng sự hiện diện của Mỹ sẽ kéo dài mãi mãi - Bộ trưởng Hegseth cảnh báo.
Tất nhiên, các nghiên cứu cho thấy châu Âu hoàn toàn có thể tự bảo vệ mình nhưng nhiệm vụ sẽ không dễ dàng khi đòi hỏi khu vực phối hợp nhiều hơn. Trước tiên, nhu cầu tăng cường nhân sự và trang thiết bị trên quy mô lớn là kế hoạch rất tốn kém. Theo ước tính, châu Âu phải chi thêm 262 tỉ USD/năm (tương đương 3,5% tổng sản phẩm quốc nội của EU) cho các khoản đầu tư quốc phòng để đảm bảo năng lực tự vệ trước Nga mà không cần hỗ trợ từ Mỹ. Khoản ngân sách này trong khả năng chi trả của EU dựa trên sức mạnh kinh tế của khối 27 nước thành viên với một nửa trong số đó có thể được tài trợ bằng nợ chung của châu Âu, trong khi phần còn lại được tài trợ thông qua chi tiêu quốc phòng của các nước thành viên. “Về mặt kinh tế, con số này có thể xoay sở được... Nó ít hơn nhiều so với số tiền phải huy động để vượt qua cuộc khủng hoảng trong đại dịch COVID -19” - Giáo sư Guntram Wolff tại Bruegel và Viện Kiel cho biết.
Theo dự đoán của hai viện trên, khoảng 130 tỉ USD có thể được huy động hàng năm trong giai đoạn 5 năm tới ở cấp độ EU khi các quốc gia thành viên tăng tỷ lệ chi tiêu riêng lẻ. Chẳng hạn như Đan Mạch, nước này đang tăng 70% chi tiêu quốc phòng sau cảnh báo của các cơ quan tình báo về khả năng Nga phát động chiến tranh cục bộ chống lại một quốc gia láng giềng trong vòng 6 tháng. Tuy nhiên về lâu dài, ngân sách quốc phòng bổ sung sẽ cần cơ chế hỗ trợ tài chính bền vững hơn khi xét đến quy định của mỗi nước. Đơn cử như Đức, nước này có cơ chế kỷ luật ngân sách “phanh nợ” nhằm kiểm soát nợ công và thâm hụt không được vượt quá 0,35% tổng sản phẩm nội địa (GDP). Thêm nữa là quy định chung của EU mà Đức phải tuân thủ, trong đó tổng giá trị các khoản nợ công không được vượt quá 60% GDP. Quốc gia trụ cột khác của EU là Pháp hiện cũng chịu áp lực từ thị trường trái phiếu do thâm hụt ngân sách lớn và tỷ lệ nợ trên GDP cao.
Mỹ đang duy trì khoảng 35.000 quân tại Đức, 12.000 quân tại Ý, 8.000 quân tại Anh cùng số lượng nhỏ hơn ở các quốc gia châu Âu khác. Hồi tháng 1, Tổng thống Trump có kế hoạch cắt giảm 20.000 binh lính đồn trú tại châu Âu và yêu cầu khu vực phải trả nhiều tiền hơn cho việc duy trì quân đội Mỹ. Theo Giáo sư Nicholas Burns tại Đại học Harvard, các nước đồng minh NATO đã trả 34% chi phí hoạt động quân sự của Mỹ ở khu vực, tương đương 2,5 tỉ USD/năm. Sự hỗ trợ của các thành viên NATO chỉ trang trải được khoảng 1/3 chi phí quân sự mà Mỹ đang gánh. Tỷ lệ đó thấp hơn so với những quốc gia khác có quân đội Mỹ đồn trú, chẳng hạn như Hàn Quốc (40%), Nhật Bản (75%), Kuwait (58%), Qatar (61%) và Saudi Arabia (65%).
MAI QUYÊN (Theo Reuters, Politifact)