* Truyện ngắn: PHẠM VĂN THÚY
Được tin chị bệnh, tôi phóng xe về ngay. Từ Cần Thơ tới nhà chị hơn bốn chục cây số. Mặt lộ vốn phẳng phiu, vậy mà bữa nay tay lái cứ chệch choạc, chừng như toàn ổ gà, ổ vịt dưới chân. Con đường đưa tôi trở về một vùng quê với những kỷ niệm không vui.
Chị đang nằm bệnh viện. Vào gặp, tôi ôm lấy chị, nước mắt trào ra. Chị cầm tay tôi, thì thào: “Mới về đó Tư! Đi đường mệt không cậu? Vợ và sắp nhỏ có khỏe không?”. “Dạ, khỏe, chị Ba!”. Nghe tôi trả lời, ánh mắt chị sáng lên niềm vui. Chị lay nhẹ tay tôi: “Đàn ông đàn ang gì mà mau nước mắt quá trời. Cười lên! Thấy Tư về là chị khỏe ngay mà”.
Người chị ốm o, nước da tái mét, tóc rụng vơi nửa mái đầu. Chị đổi thay nhiều quá. Riêng giọng nói, nụ cười, ánh mắt vẫn ấm áp và hiền dịu như xưa. Pha ly sữa, tôi đưa chị uống. Chị với lấy cái ly không san cho tôi già nửa, bảo: “Chị uống nhiều rồi, cậu uống cho đỡ mệt”. Tôi ngần ngừ, chị bảo: “Cậu không uống chị giận luôn đấy!”. Tôi đành uống để chị vui, dòng sữa ngọt thơm lan tỏa khắp người.
***
Tháng Tám năm 1970, trong một đêm không thể nào quên. Dẫu biết rằng trong chiến tranh mọi việc đều có thể xảy ra! Nhưng sự việc ập đến quá bất ngờ, làm tôi không kịp trở tay. Đêm đó đã ám ảnh tôi suốt đời.
Ngày ấy nhà chị là một trong những cơ sở giao liên tin cẩn của Khu, có nhiệm vụ đưa đón cán bộ giao bưu chuyển công văn, tài liệu... từ Khu về các tỉnh và ngược lại. Nhà chị bên vàm sông Cái Sắn, có vị trí khá thuận lợi cho việc tới lui, xuôi ngược. Chị khoảng 24, hơn tôi bốn tuổi. Chị sống trong ngôi nhà mái lợp và vách dừng bằng lá dừa nước khá dày dặn và kín đáo. Loại lá này có nhược điểm rất dễ cháy. Tôi là giao bưu của Khu, đã tới lui nhà chị nhiều lần. Tôi chỉ biết đôi điều: chị thứ Ba tên Lâm. Mười tám tuổi lấy chồng. Chồng chị là du kích xã đã hy sinh trong một trận chống càn. Chị chưa kịp sanh cho ảnh đứa con...
Là cơ sở giao liên, ấy vậy mà xung quanh nhà chị vườn tược cây cối lưa thưa, trống huơ trống hoác. Tôi băn khoăn: Nếu bất ngờ địch ập đến, chị tính sao? Chị tự tin bảo: “Cậu an tâm. Tùy cơ mà ứng biến. Chị đã chuẩn bị đâu vào đấy cả rồi, cậu khỏi lo, nghỉ ngơi cho khỏe”.
Đêm đó, giao liên đưa tôi đến nhà chị thì trời đã gần sáng. Tiếng gà eo ót gọi bình minh. Ghe xuồng của bà con và dân thương hồ đã ì ầm xuôi về bến chợ. Cả vùng sông nước sôi động hẳn lên. Như thường lệ, tôi “chém vè” trong nhà chị đợi ngày qua, đêm xuống sẽ có xuồng của giao liên đưa đi chặng tiếp. Trước đó, lúc lên đường, thủ trưởng dặn đi dặn lại: “Đây là công văn tuyệt mật. Bằng mọi cách cậu phải đưa đến đúng nơi quy định và phải đảm bảo tuyệt đối an toàn cho công văn. Trên đã báo cho các cơ sở giao liên giúp cậu”...
Tôi bồn chồn lo lắng. Cả một ngày ém trong nhà chị, tôi chắc mẩm đêm nay sẽ có một chuyến đi suôn sẻ. Chạng vạng tối. Cơm nước xong. Chị đưa tôi đòn bánh tét, bảo: “Cậu cầm theo khuya ăn cho đỡ đói. Nhớ quàng khăn rằn cho ấm cổ, kẻo gặp gió sương cảm lạnh thì khổ”. Chị còn đưa cho tôi chai dầu gió. Chị cũng không quên dồn cho tôi bình ton nước chín.
Bảy giờ tối, mọi việc đã sẵn sàng. Chị thắp ngọn đèn hột vịt đặt ngay chính giữa tủ thờ rồi châm ba nén nhang nâng ngang trán, miệng thầm thì cầu khấn điều gì đó có vẻ thành kính lắm. Khói nhang quấn quýt, thoang thoảng hương thơm như làm dịu bớt sự hồi hộp vốn có trước mỗi chuyến đi. Ngoài vàm tiếng tàu vọng vào. Gió nổi vù vù quất xuống mặt vàm làm dềnh lên những con sóng xô bờ oàm oạp. Chị nhẹ nhàng mở rộng cửa giữa. Ngoài vàm có thể thấy rõ ngọn đèn cháy trên tủ thờ. Ngọn đèn là mật hiệu báo sự bình yên. Việc tưởng chừng như vô tình, đơn giản. Song đó lại là một sáng kiến độc đáo mà quân thù không ngờ tới.
Bóng đêm đen như mực. Từng ngọn gió liếm vào mái lá roàm roạp. Tôi cảm thấy ngột ngạt, lòng như có than hồng. Tôi định nói điều dự cảm chẳng lành, nhưng thấy chị vẫn bình thản tự tin, tôi không nỡ. Hình như chị cũng cảm nhận được điều gì đó, chị lặng lẽ kéo và gài cánh cửa giữa lại cẩn thận.
Khoảng tám giờ tối, bỗng hai chiếc bo bo gầm rú điên loạn trên mặt vàm. Những ngọn đèn pha trên bo bo đua nhau khoan vào màn đêm làm sáng rực cả mặt nước. Đột nhiên chúng tấp vô bến nhà chị. Bọn lính nhảy xuống xộc thẳng vào vườn, rồi bao vây quanh nhà chị. Trước tình hình cấp bách, tôi chỉ kịp cầm khẩu AK báng gấp và mấy trái lựu đạn mỏ vịt. Chị vội đưa cho tôi chiếc bòng và lẹ làng mở nắp cửa ngăn vách đôi cuối nhà. Tôi nghiêng mình chui vào. Chị khẽ dặn: “Cậu chịu khó ém trong đó, mọi việc ngoài này mặc chị lo. Cậu không được manh động. Đoạn, chị cẩn thận đóng nắp cửa vách đôi lại. Cho đến lúc này tôi mới biết, hầm “bí mật” là bức vách đôi này đây! Bức vách đôi tưởng chừng như bao bức vách khác, có ai ngờ nó lại là căn hầm bí mật lộ thiên ở ngay trước mũi quân thù.
Bên ngoài chừng một tiểu đội lính ngụy đang vây nhà. Tên chỉ huy quát tháo: “Mở cửa! Mở cửa! Đ. M! Con Ba đâu? Mới tối mà đã ngủ sớm dữ vậy!”. Tiếng chị vọng ra: “Tôi là đàn bà... Sống một mình... Không nghỉ sớm còn biết làm gì?”. Tên chỉ huy quát: “Mở cửa mau! Đừng có ỡm ờ vờ vịt”. “Đợi tôi mặc đồ đã, có chuyện gì gấp vậy!”. Chị cố tình trì hoãn, kiểm tra lại, còn có gì để chúng khả nghi không? Chị mở cửa. Những ánh đèn pin quét thẳng vào mặt chị như mắt loài thú dữ ăn đêm. Tên chỉ huy gằn giọng: “Việt cộng đâu?”. Chị ngớ ra, miệng lắp bắp: “Việt cộng! Việt cộng nào? Tôi không biết, chắc các ông lộn”. “Đừng có giả bộ ngây ngô. Khai mau!”. Chị vờ sợ sệt, thút thít: “Oan cho tôi quá! Tôi có biết gì đâu mà khai”. Tên chỉ huy lạnh lùng: “Không nhiều lời. Hầm đâu? Chỉ mau! Mật báo mách, có Việt cộng chém vè ở đây. Còn chối hả!”. Chị bình tĩnh trả lời: “Nói các ông không tin. Vậy mời các ông cứ việc xét”. Tên chỉ huy lừ mắt ra lệnh cho đồng bọn lục soát, săm soi từ trong nhà ra ngoài vườn cả giờ đồng hồ mà không tìm thấy dấu vết gì cả.
Bỗng tên chỉ huy ghé tai một tên lính thì thào, rồi khoát tay. Tên lính lập tức ra khỏi nhà.
Quái lạ! Từ nãy giờ, tên chỉ huy canh chừng chị bằng ánh mắt diều hâu, thâm độc. Giờ, sao ánh mắt ấy bỗng trở nên hau háu, đỏ ngầu như loài dê hoang, nhìn xoáy vào ngực chị. Chị bất chợt rùng mình, gai ốc nổi khắp người. Trong nhà chỉ còn chị với hắn. Bên ngoài bọn lính gác nghiêm ngặt, đèn pha, đèn pin quét sáng rực cả khu vườn.
Bất ngờ tên chỉ huy sỗ sàng cầm tay chị kéo vào lòng. Chị giật tay lại, nghiêm giọng: “Ông giở trò quái quỷ gì vậy! Tôi là gái đã có chồng. Ông hiểu cho”. Giọng hắn nhùa nhụa, mùi rượu nồng nặc: “Chồng mày chết từ lâu rồi. Liệu hồn! Thuận thì sống, chống thì chết! Nghe cưng”. Vừa nói hắn vừa sấn lại ôm ghì lấy chị. Chị xô hắn té vô góc nhà. Hắn chồm lên, đôi tay như gọng kìm ôm ghì lấy chị. Giọng gầm gừ như hổ đói: “Không chịu! Ông sẽ cho lính đốt cái nhà này, rồi bắt về đồn cho tụi nó hiếp...”. Chị gắng gượng, chơi vơi: “Ông là chỉ huy. Ông phải giữ thể diện chứ. Ông cưỡng ép, tôi la lên bây giờ”. Hắn rít qua kẽ răng: “Có trời cứu! Lính đã bao vây kín. Dân tứ tán hết rồi. Ai mà nghe la”.
Thấy chị phản ứng rời rạc, yếu ớt tên chỉ huy ôm thốc chị vô buồng...
Tôi tay chân như hóa đá. Tim tôi rung lên loạn nhịp trong đau đớn. Mũi súng AK cách quân thù vài mét. Hãy gầm lên, xả đạn vào quân thù để phá tan bầu không khí đặc quánh sự dã man, đê tiện. Tôi sẵn sàng đợi “lệnh” chị. Tôi sẽ phóng ra tiêu diệt địch rồi cùng chị chạy thoát. Thời gian lặng lẽ trôi. Lòng như lửa đốt. Tôi đợi hoài mà không nhận được “lệnh” của chị. Trái tim tôi muốn nổ tung!
...Bọn lính đã xuống bo bo. Chị lẳng lặng thay đồ và chải tóc như không có chuyện gì xảy ra! Sau đó chị ra ngoài kiểm tra mọi động tĩnh. Khi biết chắc địch đã rút hết, chị mở vách đôi cho tôi ra. Mắt chị rơm rớm, giọng đầy lo âu: “Ở trỏng, muỗi đốt dữ không cậu? Ngồi lâu chắc cứng đơ hết cả tay chân! Dầu gió đây cậu xoa bóp đều cho đỡ mỏi. Ngoài này chị lo cho cậu quá. Chỉ sợ cậu không chịu nổi, xông ra thì mọi việc sẽ đổ bể ráo trọi...”. Chị còn nói những gì nữa, nhưng tai tôi ù đặc. Đôi chân tôi khụy xuống trước mặt chị, nước mắt giàn giụa, nghẹn ngào: “Em ngàn lần có lỗi với chị. Thấy chị gặp nạn, em không cứu được. Em là tên hèn nhát, là tên...”. Tôi vừa nói vừa đấm thùm thụp vào ngực. Chị nâng tôi lên, nhỏ nhẹ: “Cậu không có lỗi gì cả. Mọi việc đã qua rồi. Điều quan trọng là chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ”. Chị đột nhiên chỉ tay lên tủ thờ, giọng khẽ khàng mà âm lượng như reo: “Ngọn đèn vẫn còn sáng kìa, cậu”. Mắt tôi hướng theo tay chị, ngọn đèn vẫn tỏa nguồn sáng lung linh như sưởi ấm cả không gian và xua tan bóng đen trong căn nhà nhỏ bé. Chị bình thản ra mở rộng cửa. Ánh đèn dường như sáng hơn, tràn ra ngoài báo hiệu sự bình yên trở lại. Không khí trong lành và những làn gió mát ùa vào xua tan sự ngột ngạt, bức bối. Ngoài vàm sóng oàm oạp vỗ từng đợt không nguôi.
***
Sau giải phóng, mỗi lần thăm chị tôi luôn cảm thấy mình là người có lỗi. Chị vẫn dung dị, thân thiết như xưa dù chị ít nói hơn, trầm tư hơn. Vết thương nào cũng đau đớn khôn cùng. Nhưng vết thương của chị, nó vô hình, đau đớn hơn ngàn lần những vết thương có hình có dạng.
Nay chị đã dựng lại nhà cửa khang trang. Ngày ngày chị vui với đứa con nuôi và cửa hàng tạp hóa của mình. Chị bình thản như mặt vàm Cái Sắn, không để dềnh lên những ngọn sóng nuối tiếc, so đo...