Truyện ngắn: NGUYỄN THANH
Mới đỏ đèn, thằng Lặn đã lò dò qua tới nhà tôi. Trông gương mặt buồn buồn của nó, đôi mắt to đen nhìn tôi đăm đăm, tôi thoáng nghĩ đến cảnh tôi phải xa xóm nay mai, xa thằng Lặn và những người quen thân láng giềng. Thằng Lặn biết việc tôi phải dời nhà vì công việc của tôi ngoài thị xã khiến thằng bé không vui.
Chiều nay lúc tàu cập bến, tôi có nhắn Út Tiện, mẹ Lặn, qua bên này để tôi viết giúp tờ khai gia đình liệt sĩ cho Út Tiện và làm một vài thủ tục liên quan khác.
Việc có hơi gấp. Một lẽ, Ủy ban nhân dân xã hối thúc gia đình thằng Lặn làm tờ khai gia đình liệt sĩ, lẽ khác, tôi sắp xa xóm muốn giúp đỡ Út Tiện và cũng nhằm phụ giúp vài việc chung với anh em địa phương.
Sau khi Ba Lành, tức cha thằng Lặn, hy sinh, Út Tiện bị bắt buộc dời nhà về sống gần bên cái bót giặc mới mọc lên với đám lính bảo an, dân vệ. Dần dà hơn hai năm, Út Tiện đi lại với thằng Hai Cao chủ ấp, có thai rồi hư thai...
Lặn và tôi nói chuyện hồi lâu, bỗng bên kia con rạch nhỏ, có tiếng kêu với qua bên này:
- Làm tờ khai xong kêu má rước nghe Lặn. Nhớ nói má gởi lời thăm bác Út đi mạnh giỏi...
Giọng Út Tiện về sau càng nhỏ lại, như có sự gì không được thoải mái tự nhiên lắm.
Đêm xuống chầm chậm, oi oi nóng bức. Thỉnh thoảng một cơn gió lùa xô tấm ni lông che hàng song cửa làm mái tóc vàng hoe của thằng Lặn lất phất, ngọn đèn dầu chao lại, chao qua.
Tôi hỏi Lặn:
- Tên ba lót chữ gì?
Lặn trả lời gọn lỏn:
- Nguyễn Văn Lành, tức Ba Lành!
- Bao nhiêu tuổi?
- Tuổi con Ngựa!
Nghe vậy, nén không được, tôi phì cười. Lặn cũng cười, hai con mắt nhắm híp.
Lát sau, Lặn hỏi:
- Tại sao bác Út cười? Tuổi con Ngựa mà...
Lặn nói trúng. Nếu còn sống thì năm nay Lành ba mươi sáu tuổi, hơn tôi một tuổi. Tuy thế, tôi vẫn ngập ngừng chưa viết được. Tôi đang hình dung ra cái gương mặt hơi vuông vuông chữ điền, đôi gò má no no và đôi chân mày rậm đen của cha thằng Lặn, bạn thân tôi. Nhớ Ba Lành quá...
* * *
Có thể nói ở xóm này, tôi với Ba Lành thân nhau như hình với bóng. Nhà dượng Chín của Lành có bầy trâu tới tám con. Lành giữ bầy trâu đó, lấy lúa nuôi gia đình hằng năm. Tôi theo Lành chăn trâu suốt ngày, lên tới đìa giằng xây trên đồng khơi ăn trái môn nước chín. Lành cỡi con trâu Sấm đi trước. Tôi cỡi con trâu Chim theo sau. Con trâu Chim được nước hiền, chậm rãi từ lúc nó bị máy bay của Pháp bắn trọng thương tới nay. Thằng Lành chơi ác, thường bắt con Sấm lấn thúc con Chim chạy bung trên đồng làm mỗi ngày tôi té ngã mười lần có dư. Thú thiệt, tuổi trẻ của tôi lúc ấy ngày nào khỏi nạn té trâu thì cũng bị nẻ đạn cu-li vô tay.
Trò chơi đó khá phổ biến và hấp dẫn đám trẻ trong xóm. Bắn đạn thua thì phải nắm chặt tay lại khum xuống đất cho đứa thắng nẻ vô. Lóng tay giữa, ngón trỏ sưng vù. Đến lượt thằng Cao thắng, nó không thèm nẻ ngay ngón giữa, mười lần như mười, nó nẻ vô lóng tay út. Ngón tay nhỏ bé của tôi và thằng Lành dần dần sưng húp, no đầy không kém lóng tay giữa.
Phải đánh thằng Cao một trận nhừ tử cho nó hết ỷ giàu chơi ăn gian. Thằng Lành bày cách bẻ gai chà là gài theo đường thằng Cao thường lui tới xách nước. Nhà thằng Cao trên đồng khơi, đi qua một quãng đồng mới tới xóm có ao nước ngọt.
Kế hoạch của tôi và Lành mới thực hiện xong đã lộ. Thằng Cao chỉ đạp một chiếc gai chà là liền chạy sấp chạy ngửa đi mét chú Năm Hòa, ba của Lành. Nó biết cánh tụi này chớ không còn ai khác.
Chú Năm quơ cây rượt đuổi thằng Lành lên tới đìa giằng xây. Lành lẩn tránh mất trong căn nhà gần đó. Bà mẹ của Tiện bắt Lành lên nằm co trên bồ lúa, lấy chiếu trùm kín mít từ đầu tới chân nên Lành qua khỏi một trận đòn.
Chính mẹ Tiện giấu Lành trên bồ lúa ấy. Biết được, mẹ Lành lấy làm tội nghiệp con. Bà cười với Lành:
- Được bà già vợ giấu cho để khỏi bị đòn! Lớn thế nào tao cũng cưới con Tiện cho hai đứa bây. Coi mòi đứa nào cũng rà rê ở đó...
Sau sự cố đó, ngày nào Tiện cũng bẻ trái môn nước buộc lại thành xâu treo lủng lẳng trong căn chòi nghỉ mát của hai đứa tôi trên bờ đìa. Tiện còn đem đến nhiều chén cơm nắn bằng đất sét, có cả cây chổi ráng nhỏ xíu để quét chòi nữa. Ngày nào Tiện không tới được, căn chòi trở nên buồn teo. Nhà Tiện ở sát bên chòi nhưng khuất một lùm trâm bầu nên thỉnh thoảng hai đứa tôi trông thấy Tiện bưng mâm chén ra cầu ao phía sau, bốc một nắm lúa vãi cho gà vịt ăn, hoặc đứng câu cá dựa bè...
Cho tới bây giờ tôi còn nhớ như in những ngày thơ ấu. Lớn lên chút nữa, Lành vẫn tiếp tục giữ trâu, không được đi học. Lúc ấy Ba Lành và tôi bắt đầu mê mệt vọng cổ. Lành thường lui tới nhà anh Hai Đang học ca. Không bao lâu, Lành ca thành thuộc.
Hai Đang chịu tiếng ca của Lành lắm. Mỗi lần đàn dứt bài, Hai Đang buông cần đàn, tay vuốt vuốt mái tóc dày của Lành. Tốp con gái trong đó có Tiện vạch vách dòm ra sòng đờn ca và cứ thúc Hai Đang đàn tiếp:
- Nữa đi anh Hai... Anh đờn mùi quá mà!
Hai Đang cười, tay buông cần đàn xuống, hỏi:
- Đờn hoài khỏi ca có đặng không?
Không biết nghĩ sao, Tiện không trả lời Hai Đang. Liền đó, chị Hai (vợ Hai Đang) lên tiếng đỡ lời Tiện:
- Có tay ca thì phải ca chớ. Bộ đập lúa sao mà mệt dữ vậy? Ca đi chú Ba...
Có tiếng cười rộn lên phía đằng sau chái bếp. Tiện ngồi nhìn về phía xa xa trên đồng, không nói gì thêm.
Chị Hai Đang biết Tiện thương quí Lành, thích tiếng ca và ngồi chờ chực để nghe Ba Lành ca.
* * *
Năm 1970, người thanh niên có giọng ca hay nhất xóm ấy đã trở thành một chiến sĩ công an vũ trang dũng cảm. Thế nhưng tại sao Út Tiện quên Lành sớm thế được? Tại sao Út Tiện tư tình với một tên gian ác thế được? Thằng Cao mặt nhám ấy đã từng đánh phá cơ sở cách mạng, ăn hối lộ và mê gái trở thành chồng của Út Tiện ư?...
Những ngày đầu xóm mới được giải phóng, tôi đã nghe hết đầu đuôi câu chuyện đó. Chị Hai Đang ngồi cả buổi trời thuật chuyện cho tôi nghe: Út Tiện ban đầu giả quen thân với Cao để tránh bớt cặp mắt gườm gườm nhìn Tiện. Cao nở ruột với tốp dân vệ thường ngồi ở những vọng gác: “Gái một con như thuốc ngon nửa điếu. Ba Lành hiện về hứa gả vợ nó cho tao!... Khà... khà...”. Rồi thằng Cao tìm đủ mọi cách lung lạc Út Tiện, nhắc chuyện nó thương Út Tiện từ hồi còn con nít tới bây giờ.
Kết cục, thằng Cao đạt được ý muốn.
Thuật xong chuyện, chị Hai Đang nói một câu: “Con Út nó ân hận dữ lắm, đừng nhắc nó đau, tội nghiệp...”
* * *
-Vậy là bả buồn dữ rồi đó bác Út. Hễ nhắc tới ba con thì bả buồn Lặn nhóng dòm qua bên kia con rạch, thủ thỉ với tôi.
Tôi kéo ghế ngồi gần Lặn hơn, hỏi:
- Hồi đồn bót còn, má có nhắc nhiều vậy không?
Lặn sốt sắng:
- Nhiều lắm bác. Bả bắt con kể cho bả nghe hoài riết rồi hết biết chuyện nói nữa.
Lặn kể tiếp:
- Con nhắc cho má con nghe bữa đó con ở chuồng trâu của bác Hai con. Bác Hai Đang chú hỏi lúc nãy đó. Tụi lính Quốc gia 397 trên Dao Vàm đi càn tới Kinh Giữa bị ba con đánh. Súng nổ thiệt lâu. Chừng ngớt tiếng súng một chút, bác Hai dắt con chạy ra tới đập, bỏ con tại đó, rồi liền nhảy cái rột xuống bụi ráng bịt hù. Con thấy hai thằng lính lòi ruột nằm khít nhau, tay đeo đồng hồ mà không có súng. Con sợ ma quá, muốn khóc lận. Kế con lội xuống mé đập đạp nhằm cái giò xanh lét của một thằng lính nữa nằm chết. Chỗ đó tới ba thằng...
Lặn kể tiếp:
- Bữa đó má con không có ở nhà. Nghe tin đơn vị ba con về đóng gần nhà nên má lội xuống lung Đợi Chờ mua tép với kiếm rau húng cây, húng lũi về chiên bánh xèo cho ba con ăn. Con chỉ nhớ vậy, vì bữa đó chút xíu sau bác Hai gái chở con và mấy anh con lên đìa giằng xây trốn ô-buýt. Trên đó êm lắm, tụi con leo lên cây trâm bầu thấy chỗ ba con chết khói mù trời.
Lặn dừng, mặt hơi nghiêng tựa lên mặt bàn như cũ. Còn tôi, tôi chưa viết được đoạn này, cứ cầm viết vẽ vẽ trên giấy giờ lâu.
Nhưng chuyện Ba Lành trong trận đánh ấy còn dài. Sau khi Ba Lành đẩy lùi năm đợt xung phong của một trung đội địch, lùm dây mây phủ kín xác Ba Lành lá tưa tả, những sợi dây mây nhàu nát. Ba Lành nằm đầu tựa lên một đụn cỏ nước mặn như nằm tựa lên chiếc gối, mặt quay nhìn vô xóm cách đó không xa. Tự Ba Lành xếp đặt cho mình một thế nằm đàng hoàng như vậy trước khi trút hơi thở cuối cùng.
Tôi gom lại tất cả những chi tiết đó thuật cho Lặn biết thêm. Tôi thấy cần phải ôn lại chuyện đã qua rất thiêng liêng đó cho lớp trẻ như Lặn và cho chính mình, lúc này.
Tôi kể chưa hết, Lặn chen vào nhắc thêm một chuyện cũ:
- Đằng nhà bác Hai còn cái hình của ba con rọi thiệt lớn. Bác Hai nói ba con giống con... Ủa, mà không phải Lặn đưa tay gãi gãi đầu Con giống ba con lắm. Ba con tuổi con Ngựa!
* * *
Có tiếng khua xuồng dưới bến. Tôi quay ra và thoáng thấy người đàn bà bước chậm rãi vào nhà. Tôi đưa tay khẽ đẩy cánh cửa ván mỏng ra đón khách. Út Tiện đã tới. Vào nhà, Út Tiện đứng lóng nhóng hồi lâu mới ngồi xuống gần bên Lặn. Thấy thế, tôi gợi chuyện để tránh bớt sự căng thẳng, bỡ ngỡ.
Tôi nói:
- Mới làm xong tờ khai đây chị Út, chỉ còn vài thủ tục nữa...
Và tôi nhắc lại hết mấy chi tiết trong tờ khai, đến thành tích tóm tắt của Ba Lành để Út Tiện góp thêm vô. Nhưng Út Tiện chỉ nói: “Nói thiệt với anh Út, mẹ con tôi không có ý lãnh khoản này, khoản nọ. Nhưng tôi mừng là cách mạng còn ghi công chồng tôi với lại công nhận thằng Lặn là con liệt sĩ. Phần tôi, tôi hiểu tôi không còn xứng đáng nữa anh Út. Hoàn cảnh tôi lúc đó... Mà thôi...”.
Út Tiện rơm rớm nước mắt. Út không giấu mặt đi nhưng hai bàn tay ôm lấy trán. Tiếng khóc nấc lên khiến tôi nhớ buổi chị Hai Đang kể chuyện về Út Tiện, lại càng nhớ Ba Lành bạn thân thời niên thiếu.
Tôi sẽ không gợi lại chuyện riêng của Tiện theo lời dặn của chị Hai Đang. Nhiều lần tôi định nói thiệt Út Tiện có sai lầm thiếu sót nhưng phần lớn đều do thằng giặc gây ra, nhưng tôi chưa nói được. Tôi bắt sang chuyện khác:
- Chỉ có một mình thằng Lặn, chị Út lo cho nó học. Mười bốn tuổi rồi, vậy là muộn lắm.
Út Tiện day lại tôi, hỏi:
- Vậy, tôi gởi thằng Lặn cho anh Út luôn thể. Ba nó không còn, mọi việc cậy nhờ anh Út với anh em địa phương. Còn phần tôi ở đây cũng ráng chạy theo bà con xóm ấp. Chắc ba thằng Lặn sẵn lòng tha thứ cho lỗi lầm của tôi lúc trước kia...
Tôi nhận lời Út Tiện. Một cơn gió đồng mát rượi giữa khuya lướt tới. Con trăng lưỡi liềm đang đáp trên ngọn cau bên kia bờ ngang mặt nhà tôi. Thằng Lặn nhìn trăng, bỗng nói:
- Học văn hóa lâu hôn vậy bác Út? Lặn lại day mặt vô nhà Chừng lớn, bác Út cho con chạy tàu nghe. Con khoái lái tàu hết thảy. Chạy nhanh như Ngựa!
Tôi và Út Tiện ngồi im và cùng gật đầu.