07/02/2009 - 21:24

Tạp bút

Tình quê hương

Ngày tôi còn nhỏ gia đình rất nghèo, cha mất sớm, mẹ phải tảo tần nuôi các con còn nhỏ dại. Quê tôi làm ruộng chỉ có một mùa, đất đồng ruộng mênh mông bát ngát, sông rạch chằng chịt, nhà cửa lưa thưa chủ yếu là cây lá nằm lẩn khuất trong những khu vườn nhỏ.

 

Đến tháng bảy tháng tám âm lịch, khi công việc cày cấy đã xong. Tôi đã chuẩn bị từ trước hơn trăm cần câu vót bằng những cây tre già để vào mùa cắm, kiếm cá phụ giúp gia đình.

Nhà tôi có chiếc ghe nhỏ có mui. Hàng ngày bốn giờ chiều chúng tôi xuống ghe bơi đến địa điểm cắm câu. Trên ghe đã có sẵn đèn, nước, lò, củi, nồi và đồ ăn mang theo: khoai lang, chuối... đôi khi có cả mía để ăn cho đỡ đói, đỡ buồn vì đi cắm câu đến sáng mới về. Cùng đi cắm câu với tôi có vài người bạn trong xóm tháp tùng bầu bạn cho vui.

Ghe xuôi theo con rạch đến nơi. Chúng tôi cắm sào cho chắc, xong mỗi đứa chọn một vạt đường cắm. Cắm xong, móc mồi, trở về chỗ đậu ghe chờ nước lớn lên ruộng, cá đi theo nước gặp mồi ăn thì mắc câu, chỉ việc đi thăm gỡ cá bỏ vào giỏ.

Các bạn tôi sau khi cắm xong cũng lần lượt về lên ghe ngồi. Mặt trời vừa lặn, sắp hoàng hôn. Nhìn về phía chân trời, những đám mây vẽ lên những bức tranh muôn hình vạn trạng: có lúc như những dãy núi chập chùng nằm kế bên biển cả, lúc như những đàn chiến mã xung phong ra trận, khi thì như những đàn voi đang ùn ùn di chuyển... trông thật là sinh động.

Màn đêm từ từ buông xuống. Các bạn tôi nhóm lửa nấu khoai, chuối ăn chờ nước lên. Khi nước đã lên ruộng cao khoảng từ một tấc rưỡi đến hai tấc thì bắt đầu thăm câu. Mỗi người một cái đèn khí đá có dây cột mang trước ngực, bên hông thì nịt một cái giỏ to, tay thì cầm cây vợt tròn đường kính khoảng ba tấc bằng dây gai để vớt cá. Cá mắc câu phải lần theo dây nhợ và lấy vợt vớt lên gỡ khỏi lưỡi câu, bỏ cá vào giỏ. Thăm câu xong lần đầu, tất cả các bạn trở về ghe, tiếp tục ăn những củ khoai, trái chuối còn thừa lại, chờ đi thăm lần sau.

Ăn xong, ngắm nhìn trăng sao, giữa khoảng trời nước mênh mông, có đứa bạn cảm hứng ca vài câu vọng cổ học lóm của bài “Sầu vương biên ải” mà nghệ sĩ Út Trà Ôn ca trong dĩa hát. Giọng ca không hay nhưng nghe buồn não nuột, giữa đêm khuya canh vắng gợi cho tâm hồn nỗi buồn man mác mông lung.

Sau đợt thăm câu lần hai và móc mồi lại, nước đã giựt xuống ruộng, cả bọn xuống ghe năm ngủ. Gần sáng nước lớn thăm đợt chót, cuốn câu về. Đêm nào trời mưa gió, đi thăm câu gió thổi tắt đèn nhiều lần, tay ướt quẹt lửa rất khó khăn. Kế bên nơi câu là khu nghĩa địa, sấm chớp nháng lên rồi vụt tắt, bóng tối bao trùm. Nhưng thường những hôm đó trúng mối, cá mắc câu nhiều, ham quá nên không sợ nữa. Khi về đến ghe thì mình mẩy ướt như chuột lột, phải đốt lửa sưởi ấm. Sáng về khi đổ cá trong giỏ ra, mẹ tôi rất mừng và xúc động vì tôi còn nhỏ mà đã biết lo phụ giúp gia đình.

Thời gian trôi qua, tôi xa quê đã hơn bốn mươi năm, vật đổi, sao dời, kẻ còn, người mất. Ngày trở về cảnh vật đã hoàn toàn thay đổi. Cánh đồng mà tôi và các bạn đi cắm câu ngày nào nay đã không còn. Quê tôi đường sá rộng rãi, thênh thang, công trình đồ sộ, nhà cửa nguy nga nhiều tầng, chợ búa buôn bán phồn thịnh. Tôi cảm thấy mừng khi quê hương mình đổi mới trên đà phát triển đi lên nhưng trong lòng vẫn bồi hồi xúc động nhớ kỷ niệm xưa.

NGUYỄN TẤN PHƯỚC

Chia sẻ bài viết