Theo các chuyên gia, gần đây vùng ÐBSCL xuất hiện hiện tượng sụt lún và sạt lở bờ sông, đe dọa sinh kế, sản xuất của người dân trong vùng. Hiện tượng trên được xác định do biến đổi khí hậu (BÐKH), khai thác tài nguyên quá mức. Từ đó, các giải pháp ứng phó, hạn chế khai thác cát, tìm vật liệu thay thế được nhiều nhà khoa học, chuyên gia đặt ra, cần sự nỗ lực thực hiện ở các địa phương trong vùng.

Sạt lở bờ sông xuất hiện ngày càng nhiều trên địa bàn TP Cần Thơ, do thiếu phù sa bồi đắp và khai thác quá mức nguồn tài nguyên cát.
Khai thác quá mức
Cục Hạ tầng kỹ thuật - Bộ Xây dựng nhận định: ÐBSCL là vùng đất rộng lớn chiếm 12% diện tích và khoảng 19% dân số của Việt Nam. Từ hàng ngàn năm nay, vùng đất ÐBSCL đang nén lại và chìm dần. Quá trình này được bù đắp bởi bồi lắng phù sa trong suốt mùa lũ và bề mặt đất nằm trên mực nước biển. Trong một vài thập kỷ qua, ngập lụt và bồi lắng phù sa đã giảm đi đáng kể nhưng quá trình nén nền đất tiếp tục gây ra sụt lún, sạt lở đất... Hiện tượng sụt lún, sạt lở đất tự nhiên càng gia tăng do khai thác tài nguyên cát, nước ngầm và trọng lượng của các công trình như đường sá, cầu, nhà cửa… gia tăng. Trong đó, hiện tượng khai thác cát, nước thiếu phù sa do các đập thượng nguồn sông Mekong chắn dòng là đặc biệt quan trọng, đã làm giảm đi độ màu mỡ, bồi đắp khắc phục sụt lún, sạt lở của đồng bằng…
Theo Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam), hiện vùng ÐBSCL có trữ lượng cát ở đáy sông từ 367-550 triệu m3. Tổng trữ lượng cát này được tính toán chủ yếu dựa trên lớp cát di động. Hiện nay tốc độ khai thác cát ở ÐBSCL từ 33-55 triệu m3/năm, trong khi lượng cát từ thượng nguồn sông Mekong đổ về đồng bằng từ 2-4 triệu m3, lượng cát rời khỏi đồng bằng (đổ ra biển) từ 0-0,6m3/năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu giữ nguyên tốc độ khai thác cát như hiện tại, trữ lượng cát tích lũy từ hàng trăm năm qua ở ÐBSCL sẽ cạn kiệt trong 10 năm tới, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định hình thái và khả năng chống chịu của đồng bằng…
Ông Hà Huy Anh, Quản lý quốc gia Dự án Quản lý cát bền vững của WWF Việt Nam, cho biết: ÐBSCL đang đứng trước thách thức lớn, đó là cân bằng giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội và duy trì các chức năng sinh thái tự nhiên. Ở ÐBSCL, cát sông vốn được xem là vật liệu có giá thành rẻ, dễ khai thác tại chỗ đã trở thành thiết yếu trong xây dựng. Từ góc nhìn môi trường, cát sông là thành tố quan trọng của trầm tích cân bằng quá trình lún tự nhiên của đồng bằng, duy trì tính nguyên vẹn và khả năng chống chịu của ÐBSCL trước các ảnh hưởng của BÐKH. Khai thác cát sông quá mức được xem là một trong những tác nhân chính gây ra việc thâm hụt trầm tích, dẫn đến gia tăng xói mòn lòng sông, sạt lở bờ sông, bờ biển, khuếch đại thủy triều và gia tăng xâm nhập mặn vào mùa khô…
Ðến năm 2023, toàn vùng ÐBSCL có đến 596 vị trí sạt lở bờ sông (với chiều dài 582,7km) và 48 vị trí sạt lở bờ biển (dài 221,7km). Trong đó có 99 điểm được phân loại sạt lở đặc biệt nguy hiểm. Nguyên nhân chủ yếu thiếu bồi lắng phù sa, khai thác cát bừa bãi… Tình trạng này ảnh hưởng trực tiếp với đời sống kinh tế - xã hội của người dân, đe dọa trực tiếp hệ sinh thái, môi trường tự nhiên của vựa lúa lớn nhất Việt Nam. Tại TP Cần Thơ, hiện nay Cần Thơ chỉ khai thác được 2 mỏ cát với tổng trữ lượng khoảng 1.129.000m3 chủ yếu dựa trên lớp cát di động, công suất khai thác khoảng 300.000m3/năm. Công suất khai thác tuy ít nhưng vẫn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định hình thái sông và khả năng chống chịu của đồng bằng. Tích hợp kết quả ngân hàng cát cho TP Cần Thơ cũng được WWF Việt Nam thực hiện. Qua đó, TP Cần Thơ còn có 5 vị trí có thể khai thác cát. Tuy nhiên quá trình khai thác cát cần xem xét rủi ro sạt lở bờ sông, cần đánh giá lợi ích kinh tế và các chi phí khắc phục khi khai thác cát… Bên cạnh đó, giấy phép khai thác cát chỉ nên được thực hiện vào giai đoạn mùa khô, nhằm đảm bảo bờ sông ổn định vào giai đoạn này.
Giải pháp
Nhiều chuyên gia, nhà khoa học cũng cho biết các yếu tố góp phần gây sụt lún, sạt lở đất như khai thác cát từ sông… cần được cơ quan chức năng, những người có thẩm quyền ra quyết định hạn chế hoặc ngưng thực hiện để giảm thiểu sụt lún, sạt lở đất; xác định các giải pháp thích ứng và sống chung với sụt lún đất, hạn chế sạt lở bờ sông. Trong bối cảnh này, những quy định về hạn chế, ngưng khai thác cát cần nghiêm khắc hơn và thực hiện hiệu quả hơn…
Thực hiện giải pháp trên, Dự án giảm thiểu tác động BÐKH và phòng, chống thiên tai (PCTT) được tổ chức WWF Việt Nam hợp tác cùng Cục Quản lý Ðê điều và Phòng chống Thiên tai Việt Nam triển khai thực hiện từ năm 2019, được tài trợ bởi Quỹ Sáng kiến Khí hậu Quốc tế của Chính phủ Ðức thông qua WWF Ðức. Dự án với những hoạt động chính: xây dựng cơ sở dữ liệu ngân hàng trầm tích cho ÐBSCL; tăng cường nhận thức của cộng đồng và các cơ quan ra quyết định về những tác động của việc khai thác cát và sỏi không bền vững, làm gia tăng thiên tai ở ÐBSCL; tăng cường khả năng cho các đối tác truy cập thông tin về rủi ro liên quan đến khai thác cát, sỏi và thúc đẩy tìm kiếm các nguồn vật liệu thay thế cát sỏi trong lĩnh vực xây dựng; xây dựng các khuyến nghị, hướng dẫn về khai thác cát sỏi bền vững và lồng ghép trong chính sách phòng, chống thiên tai, phát triển bền vững ở ÐBSCL… Dự án từng bước phát huy hiệu quả, ngăn chặn khai thác cát bừa bãi.
Mới đây, tại buổi làm việc của lãnh đạo TP Cần Thơ với WWF Việt Nam về kết quả nghiên cứu phương pháp tích hợp ngân hàng cát vào kế hoạch quản lý khai thác cát của TP Cần Thơ, WWF Việt Nam báo cáo kết quả nghiên cứu, đánh giá trữ lượng, khả năng cung cấp của 8 loại vật liệu thay thế cát sông ở miền Nam. Nghiên cứu này tập trung đối với 8 loại vật liệu có khả năng thay thế, như cát nghiền, tro trấu, tro bã mía, xà bần, thủy tinh phế thải, xỉ lò cao, cao su thải, xỉ đáy. Ông Dương Tấn Hiển, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố, đánh giá cao kết quả nghiên cứu của WWF Việt Nam. Ông Dương Tấn Hiển cho biết: “TP Cần Thơ đang cần lượng cát khá lớn để phục vụ xây dựng các công trình trọng điểm trên địa bàn. Tuy nhiên, không vì xây dựng mà khai thác cát quá mức, làm ảnh hưởng môi trường, bờ sông dẫn đến sạt lở… Do đó, TP Cần Thơ tăng cường quản lý khai thác cát, đồng thời đang cần các vật liệu thay thế phù hợp. Trong các vật liệu thay thế mà WWF Việt Nam đưa ra thì thành phố mong muốn WWF Việt Nam nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về cát nghiền, cát nhiễm mặn (sau khi xử lý) có thể thay thế cát nền xây dựng ở TP Cần Thơ cũng như ở ÐBSCL...”.
Bài, ảnh: HÀ VĂN