01/05/2008 - 23:26

Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân:

Tích cực tạo cơ hội cho nhóm có thu nhập thấp tham gia và thụ hưởng chính sách an sinh xã hội

 

Đảm bảo an sinh xã hội là một trong 8 nhóm giải pháp lớn Chính phủ đề ra nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của đất nước hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định phát triển kinh tế - xã hội. Phóng viên TTXVN vừa có cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân xung quanh việc thực hiện giải pháp quan trọng này.

* Mục tiêu hàng đầu hiện nay của Chính phủ là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tăng trưởng bền vững. Đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp của ngành nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ về an sinh xã hội.

- Trong tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, có tác động tiêu cực đến tăng trưởng bền vững của nền kinh tế nước ta, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của đất nước ta là: kiềm chế lạm phát, đảm bảo ổn định phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là các đối tượng người có công, người nghèo... đồng thời Chính phủ cũng đề ra 8 nhóm giải pháp để thực hiện nhiệm vụ đó. Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 7-4-2008 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đã có văn bản số 1139/LĐ-TB&XH-VP chỉ đạo và yêu cầu các Giám đốc Sở LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ tập trung triển khai một số nhiệm vụ cấp bách. Trước hết, tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, các chương trình giảm nghèo, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới để thu hút lao động, phối hợp với ngân hàng chính sách xã hội, thực hiện tốt việc giải ngân cho vay học nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động... đúng đối tượng, đúng chính sách và kịp thời; huy động và tập trung nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo, đặc biệt ưu tiên cho 58 huyện nghèo nhất. Các đơn vị cũng xem xét cho phép giãn nợ, khoanh nợ đối với các hộ vay vốn Quỹ giảm nghèo nhưng bị thiệt hại do rét đậm, dịch bệnh và giúp những hộ này tiếp tục được vay vốn để phục hồi sản xuất. Các dự án thu hút nhiều lao động được tăng mức vốn vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, hỗ trợ kinh phí dạy nghề để doanh nghiệp tiếp nhận thêm lao động; tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời việc chi trả trợ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng, đối tượng xã hội. Các tỉnh tiếp tục đẩy mạnh các phong trào đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, huy động thêm các nguồn lực xã hội để góp phần đảm bảo ổn định và từng bước nâng cao mức sống các gia đình chính sách, người nghèo; tăng cường kiểm tra nắm tình hình đời sống của nhân dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, các địa phương bị thiên tai, dịch bệnh nặng, những người có thu nhập thấp, kinh tế quá khó khăn do tác động của chỉ số giá cả tăng mạnh để có giải pháp hỗ trợ, cứu trợ kịp thời, không để người dân bị đói, trẻ em bỏ học, tạo điều kiện cho họ ổn định đời sống và sản xuất. Ngành chuẩn bị các điều kiện để hướng dẫn thực hiện đúng lộ trình cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công đã được Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X thông qua, phù hợp với tình hình thực tế, cải thiện đời sống của một bộ phận nhân dân trong Quý IV-2008...

* Thưa Bộ trưởng, bảo hiểm xã hội là nội dung quan trọng của hệ thống an sinh xã hội. Bộ trưởng có thể cho biết những điểm mới được triển khai thực hiện trong lĩnh vực này ?

- Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, luôn được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp qua các thời kỳ và trong nhiều văn bản pháp quy, quy định rõ chế độ, chính sách BHXH đối với người lao động, từng bước tạo cơ sở pháp lý vững chắc để đưa những chủ trương, chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta đi vào cuộc sống.

Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội đang xây dựng đề án phát triển hệ thống an sinh xã hội nhằm hỗ trợ, bảo vệ người có thu nhập thấp, người làm công ăn lương, người lao động tại các khu công nghiệp. Ảnh: T.H 

Ngày 29-6-2006, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI, Luật BHXH đã được thông qua, đánh dấu một bước quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách BHXH ở nước ta, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội cho phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.

Những điểm mới trong Luật BHXH tập trung vào một số nội dung cơ bản sau: Một là, các chính sách, chế độ BHXH được xây dựng đã khắc phục cơ bản những bất cập, hạn chế của các quy định trước đây và được bổ sung, hoàn thiện theo hướng ngày càng đảm bảo tốt hơn không chỉ đảm bảo quyền lợi của người lao động mà còn đảm bảo tốt hơn lợi ích của các bên tham gia lao động trong mọi thành phần kinh tế đồng thời đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế nền kinh tế, thực hiện mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội, đảm bảo quyền tham gia và thụ hưởng BHXH của người lao động.

Hai là, chính sách BHXH thực sự tạo điều kiện cho người lao động làm việc ở mọi thành phần kinh tế được tham gia, không chỉ lao động làm công hưởng lương mà cả lao động không làm công hưởng lương.

Ba là, bổ sung các chế độ mới nhằm hỗ trợ một cách chủ động hơn cho người lao động khi mất việc làm, nhanh chóng đưa họ trở lại thị trường lao động, tạo cơ sở từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO.

Các nội dung trên chính là việc thực hiện đa dạng hóa các loại hình BHXH, tiếp tục mở rộng hơn nữa chế độ và đối tượng tham gia BHXH tiến tới BHXH cho mọi người lao động trong xã hội. Theo đó, Luật BHXH quy định ngoài BHXH bắt buộc còn bổ sung loại hình mới, chế độ bảo hiểm mới đó là BHXH tự nguyện (thực hiện từ 2008) và bảo hiểm thất nghiệp (thực hiện từ 2009).

Bốn là, quy định cụ thể các nội dung liên quan tới hình thành, sử dụng và quản lý quỹ BHXH nhằm đảm bảo quỹ được được bảo toàn, tăng trưởng bền vững và chủ động trong việc thực hiện các chế độ BHXH.

Năm là, hoàn thiện và công khai quy trình thủ tục thực hiện chính sách BHXH theo hướng tinh giản, cải cách hành chính, hoạt động hiệu quả, phục vụ tốt hơn cho người lao động tham gia BHXH.

Chính phủ đã ban hành đồng bộ một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật BHXH. Cụ thể là: Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22-12-2006 hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc; Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19-4-2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc đối với quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu; Nghị định số 184/2007/NĐ-CP ngày 17-12-2007 về điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc; Nghị định số 143/2007/NĐ-CP ngày 10-9-2007 quy định về thủ tục nghỉ hưu đối với cán bộ công chức đủ điều kiện nghỉ hưu; Nghị định số 135/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 8 năm 2007 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH; Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28-12-2007 về bảo hiểm xã hội tự nguyện... Đây là các văn bản quan trọng cụ thể hóa các quy định của Luật BHXH về thực hiện các chính sách, chế độ BHXH, tạo cơ sở cho việc thực hiện đầy đủ, thống nhất các quy định về BHXH đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người lao động.

* Cơ hội tham gia và thụ hưởng chính sách của nhóm thu nhập thấp còn rất hạn chế so với nhóm có thu nhập cao. Ngành Lao động-Thương binh và Xã hội sẽ làm gì để góp phần chăm sóc, bảo vệ quyền lợi cho người thu nhập thấp, người làm công ăn lương, lao động tại các khu công nghiệp...?

- Trước hết, nhận định cơ hội tham gia và thụ hưởng chính sách của nhóm thu nhập thấp còn rất hạn chế so với nhóm có thu nhập cao có thể chưa hoàn toàn chính xác. Đúng là cơ hội tham gia của nhóm thu nhập thấp còn hạn chế đối với các chính sách xã hội cần có sự tham gia đóng góp của người dân như chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện (chẳng hạn mức thu nhập lựa chọn tham gia BHXH tự nguyện thấp nhất bằng mức tiền lương tối thiểu chung quy định cho từng thời kỳ có thể là một hạn chế làm cho những người nghèo có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu khó tham gia). Nhưng đồng thời chúng ta cũng có các chính sách xã hội thiết thực, đi vào cuộc sống, hỗ trợ trực tiếp và thiết thực cho các nhóm thu nhập thấp và chỉ các nhóm này mới được thụ hưởng các chính sách này. Ví dụ như chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, dạy nghề cho người nghèo, miễn giảm học phí cho học sinh thuộc hộ nghèo, đất sản xuất, đất ở, nước sạch và nhà ở cho người nghèo. Nhờ đó chỉ số bất bình đẳng về thu nhập (hệ số Gini của Việt Nam) là 0,41, như vậy vẫn ở mức tương đối bình đẳng. Nói như vậy không có nghĩa chúng ta chủ quan mà vẫn cần tích cực, chủ động thực hiện các chính sách và giải pháp góp phần chăm sóc, bảo vệ quyền lợi cho người thu nhập thấp, người làm công ăn lương, người lao động tại các khu công nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về đảm bảo an sinh xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xác định hai hướng giải pháp chính là các giải pháp hỗ trợ bảo vệ của Nhà nước và xã hội và các giải pháp hỗ trợ để đối tượng tự bảo vệ, cụ thể là: Xây dựng đề án phát triển hệ thống an sinh xã hội nhằm hỗ trợ, bảo vệ người có thu nhập thấp, người làm công ăn lương, lao động tại các khu công nghiệp... tham gia được vào các cơ chế, chính sách an sinh xã hội giảm thiểu các rủi ro cả về kinh tế và xã hội cho họ - đây là các chính sách hỗ trợ và bảo vệ. Xây dựng và thực hiện các chính sách và giải pháp nâng cao năng lực cho các nhóm đối tượng này để họ có thể tự bảo vệ mình trước những rủi ro, bất ổn của thị trường.

Từ định hướng đó, Bộ xác định một số hoạt động cụ thể cần sớm triển khai là: Thứ nhất, rà soát, đánh giá lại các chính sách và giải pháp an sinh xã hội hiện hành; sửa đổi, bổ sung các chính sách theo hướng xóa các rào cản và tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận, thụ hưởng chính sách của các nhóm đối tượng có thu nhập thấp, người làm công ăn lương, lao động tại các khu công nghiệp...; rà soát, sửa đổi các mức trợ cấp cho đối tượng xã hội phù hợp với tình hình thực tế.

Thứ hai, triển khai có hiệu quả các chương trình phối hợp hoạt động giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại doanh nghiệp, thực hiện tốt luật pháp và chính sách lao động nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động.

Thứ ba, triển khai tốt chính sách bảo hiểm thất nghiệp, đảm bảo thu nhập thay thế khi người lao động mất việc làm, thực hiện các giải pháp tích cực để đưa người thất nghiệp nhanh chóng trở lại làm việc, ổn định cuộc sống của gia đình họ. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm, đảm bảo thu nhập thực tế cho người lao động.

Thứ tư, tích cực triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo. Xây dựng và thực hiện đề án hỗ trợ toàn diện cho 58 huyện có tỷ lệ nghèo cao nhất hiện nay để cải thiện và nâng cao mức sống người dân, không để khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng quá xa, đảm bảo thành quả của đổi mới và phát triển đến được mọi vùng của đất nước.

Thứ năm, thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu về dạy nghề, dạy nghề cho nông dân, cho người nghèo để nâng cao năng lực, cải thiện chất lượng việc làm, tăng thu nhập nhằm tăng cường năng lực tự bảo vệ, tự vươn lên của người nghèo, người có thu nhập thấp.

Thứ sáu, phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, chỉ đạo các địa phương triển khai tốt các dịch vụ công cho người lao động; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hỗ trợ đời sống cho người lao động, kể cả lao động di cư như xây dựng nhà ở, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao năng suất lao động và tiền lương, phúc lợi cho người lao động v.v...

Thứ bảy, đối với các đối tượng xã hội, chỉ đạo các địa phương triển khai Nghị định 67/2007/NĐ-CP nhằm hỗ trợ 1,3 triệu đối tượng xã hội khó khăn nhất, bao gồm người tàn tật, trẻ em mồ côi, người cao tuổi, người đơn thân nuôi con...

Thứ tám, tích cực nắm bắt thông tin, tình hình cơ sở để có các giải pháp, chính sách kịp thời, phù hợp với thực tiễn.

* Xin cảm ơn Bộ trưởng!

PHÚC HẰNG (thực hiện)

Chia sẻ bài viết