Chiến tranh làm ba mất đi cánh tay rắn rỏi. Mẹ phải gồng gánh cả gia đình, nuôi đàn con nheo nhóc và người mẹ già. Mẹ làm tất cả để mong cho chúng con ăn học thành tài. Nhà chỉ có mảnh đất nhỏ phía sau hè, mẹ nghĩ ngay đến việc trồng khoai để bán. Sau mỗi buổi sáng từ chợ về nhà, mẹ vội đi ra rẫy khoai. Ngày nào cũng vậy, mẹ quần quật ngoài rẫy khoai để trồng, tưới nước, bón phân, đào củ... Rẫy khoai xanh um sau vườn cứ đi suốt tuổi thơ con. Tay mẹ nhẹ nhàng đặt từng củ khoai lang, khoai mì vào thúng như đặt vào trong đó những hy vọng tràn trề. Cứ sau những lần thăm rẫy, mẹ đều trở vào nhà với cả mớ rau lang non mượt đặt đầy trong nón lá. Nhà chẳng có gì ăn ngoài nồi cơm độn với khoai lang. Thức ăn là dĩa nước tương dầm ớt và đọt rau lang luộc.Vậy mà ai cũng dùng cơm thật vui vẻ, thật ấm cúng. Nhớ làm sao những tháng ngày ấy, lúc nào ba mẹ cũng nhường cơm cho con và ngoại ăn, còn hai người thì dùng khoai lang độn.
Mẹ trồng khoai quanh năm suốt tháng, hết vụ này mẹ lại gầy vụ khác. Xung quanh rẫy khoai, mẹ giâm rất nhiều nhánh khoai mì để có thêm nguồn thu nhập. Khoai mẹ trồng tốt rễ, có củ to, được nhiều người làm chè, làm bánh rất thích. Nhưng mà mẹ muốn tự tay mình chế biến những món ăn để đem ra chợ bán. Khoai lang thì mẹ làm chè khoai, khoai luộc, khoai chiên. Trong khi khoai mì thì mẹ làm bánh tằm mì, chè mì, mì nướng. Nhà chỉ có hai người phụ nữ, mẹ và ngoại, nên việc làm bánh đều một tay hai người đảm trách, thỉnh thoảng ba cũng giúp một ít công việc nhẹ khi cần. Ngoại tuy già nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn, đôi tay vẫn khéo léo nên bánh ngoại làm thường rất ngon, trẻ con và cả người lớn đều thích. Vào những ngày rằm, khách thường đi chợ mua nguyên liệu về nhà làm chè cúng nên gánh hàng của mẹ hết muộn. Hay những buổi tối trời mưa tầm tã, khách đi chơi nhanh chân trú mưa hoặc vội về nhà nên không buồn dùng chè. Những ngày như thế, cả nhà ăn chè thay cơm! Ngoài trời mưa như trút nước, trong nhà, nước mắt của mẹ cũng lăn theo.
Rồi rẫy khoai càng nhỏ dần, mối lo càng rộng thêm khi chúng con lần lượt vào đại học. Mẹ nhờ ngoại bán chè giúp ngày hai buổi, để đủ thời gian lo cho việc trồng và đi buôn khoai. Nhờ số vốn ngoại chắt chiu, gói ghém trong ống tre từ thời ông ngoại còn sống, mẹ đầu tư vào những chuyến buôn hàng và có hiệu quả rất cao. Nhờ đó mà mẹ có đủ tiền để lo cho anh chị em chúng con học hành đến nơi đến chốn, không để đứa nào bị thiệt thòi vì thua con chữ so với bạn bè. Mẹ luôn nhắc nhở các con rằng: “Đời mẹ đã quá khổ rồi, chỉ mong sao các con học hành đến chốn, thành đạt để không phải vất vả về sau này!”. Lời của mẹ cứ làm anh chị em chúng tôi đau đáu mãi, nó như một sức mạnh giúp chúng con thoát khỏi những ám ảnh nghèo khó mà chuyên tâm học hành.
Những năm tháng nhọc nhằn ấy cũng qua đi, đọng lại trên dáng lưng còng của ngoại, trên gương mặt đầy vẻ lo toan của mẹ. Chúng con đều có thành tích học tập khá, giỏi ở trường. Chị hai là người đầu tiên trong xã đậu đại học y khoa, còn tôi là người đầu tiên đậu vào ngành báo chí... Tóc mẹ đã chớm pha sương, chân chim chịt chằng trên da mặt. Ngoại và ba lần lượt về với đất. Nhà đã khá giả hơn khi chị hai, anh ba ra trường và có công việc ổn định. Nhưng những món ngon vật lạ không làm mẹ quan tâm. Niềm vui mỗi ngày của mẹ là được ra thăm rẫy khoai thuở nào, dù bây giờ nó chỉ là mảnh đất hoang sơ, cây cỏ um tùm. Tôi đi học xa nhà, một năm chỉ về được vào dịp hè nên nhớ mẹ, nhớ nhà da diết.
Đối với con, mẹ toát lên vẻ đẹp thánh thiện, biểu trưng cho nét đẹp vốn có của những phụ nữ ở làng quê Việt Nam. Con yêu mẹ ngay cả trong những giấc mơ, khi những tiếng thì thầm của mẹ và ngoại, mùi hương ngào ngạt của khoai lang, khoai mì mọng nước cứ thoang thoảng quanh con. Âm thanh đó, mùi hương đó cứ bấu chặt vào ký ức con, cứ vọng lại, thật đến nỗi con không dám cựa mình mở mắt, sợ giấc mơ tan biến vào hư không.
NGUYỄN THANH VŨ