Việt Nam có nguồn rơm rạ dồi dào từ quá trình sản xuất lúa, nhất là tại vùng ĐBSCL. Với sự hỗ trợ, hướng dẫn của ngành chức năng, nông dân tại các địa phương có trồng lúa đã quan tâm thu gom rơm để khai thác, sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau nhằm gia tăng thu nhập và giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, hiện vẫn còn một lượng lớn rơm rạ bị đốt bỏ lãng phí trên đồng sau các mùa thu hoạch lúa, điều này đòi hỏi cần có giải pháp khắc phục kịp thời.
Rơm còn bị bỏ phí
Việt Nam là một trong những quốc gia sản xuất, xuất khẩu lúa gạo hàng đầu trên thế giới, mỗi năm làm ra lượng lúa gạo khoảng 43-44 triệu tấn, cùng với đó nước ta cũng có lượng rơm rạ ở mức tương đương. Rơm rạ có thể phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng giúp mang lại lợi ích to lớn cho con người như trồng nấm rơm, tủ gốc rau màu, làm thức ăn chăn nuôi, chất đốt, đồ gia dụng, vật liệu sinh học hay phân bón hữu cơ.
Với nhiều công dụng và lợi ích thiết thực mà rơm mang lại, thời gian qua, người dân tại các địa phương có trồng lúa trong nước đã quan tâm thu gom rơm để phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng, giúp nâng cao chuỗi giá trị lúa gạo. Song, do còn gặp khó khăn trong việc thu gom, tiêu thụ rơm và phát triển các mô hình hiệu quả trong khai thác, sử dụng rơm nên tại nhiều nơi rơm còn bị đốt bỏ trên đồng. Nhiều nông dân cũng chưa nhận thấy hết giá trị của rơm rạ, muốn xử lý nhanh rơm rạ để kịp sản xuất vụ lúa tiếp theo nên còn giữ tập quán đốt bỏ rơm sau thu hoạch lúa.
Tại vùng sản xuất lúa gạo trọng điểm của cả nước là ĐBSCL, hằng năm có khoảng 24-25 triệu tấn rơm rạ. Theo báo báo, đánh giá của cơ quan chức năng, rơm rạ tại vùng ĐBSCL chưa được tối ưu hiệu quả sử dụng. Trên 50% lượng rơm rạ trong vùng vẫn bị đốt, bỏ tại ruộng gây ô nhiễm, phát thải khí nhà kính và thất thoát giá trị kinh tế.

Vùng ĐBSCL có nguồn rơm rạ rất dồi dào. Trong ảnh: Thu gom rơm ở TP Cần Thơ.
Theo khảo sát, đánh giá của nhóm nghiên cứu gồm các chuyên gia đến từ Đại học Cần Thơ và Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI), hiện việc quản lý, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên rơm tại ĐBSCL còn gặp khó do chi phí thu gom, vận chuyển, bốc xếp cao và giá bán rơm còn thấp. Chưa có nhiều mô hình kinh doanh bền vững và bao trùm. Thiếu cơ chế thu gom quy mô lớn và chưa tích hợp rơm vào quy hoạch logistics nông sản. Chuỗi giá trị rơm rạ còn phân tán, thiếu liên kết, vai trò và lợi ích giữa các tác nhân chưa rõ ràng. Giá trị gia tăng thấp, thị trường chưa ổn định, thiếu tiêu chuẩn và thông tin giá. Rơm rạ còn bị xem là phế phụ phẩm, chưa được công nhận là tài nguyên sinh khối, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia.
Quan tâm tối ưu hiệu quả sử dụng rơm rạ
Để thúc đẩy thực hiện các giải pháp, cách làm hay và đề xuất chính sách nhằm quản lý, khai thác hiệu quả rơm rạ, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) phối hợp IRRI và Hiệp hội ngành hàng Lúa gạo Việt Nam tổ chức hội thảo "Chuỗi giá trị rơm rạ: Chính sách và Cơ hội đầu tư". Tại hội thảo này, nhiều đại biểu kiến nghị cơ quan chức năng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn nâng cao kiến thức cho nông dân và hợp tác xã (HTX) về cách quản lý, sử dụng rơm rạ. Hỗ trợ phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn từ rơm, cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ rơm rạ và tín chỉ carbon để tạo động lực cho nông dân trong thu gom rơm. Kịp thời hoàn thiện khung chính sách và hệ thống dữ liệu để quản lý, khai thác tốt nguồn rơm rạ và kiểm soát, xử lý dứt điểm việc đốt rơm. Phát triển các mô hình dịch vụ cơ giới hóa, hệ thống logistics để giảm chi phí trong khai thác, sử dụng rơm. Có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho nông dân về vốn, công nghệ và thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị.
Ông Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ NN&MT), cho rằng: “Cần xác định rơm rạ là nguồn tài nguyên và phải sử dụng hiệu quả. Từ nhận thức như vậy, chúng ta mới có những cách ứng xử phù hợp và coi việc xử lý rơm rạ là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển ngành lúa gạo và nông nghiệp xanh, phát thải thấp”.
Theo ông Cao Đức Phát, cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, chú ý lấy thị trường làm trọng tâm và công nghệ làm đòn bẩy. Hiện 50% rơm rạ còn bị đốt, bị vùi trên ruộng, điều này có nghĩa là cung đang vượt xa cầu và giá rơm tại nhiều nơi chỉ khoảng 1.000 đồng/kg. Vì vậy, cần có chính sách kích thích thị trường, tháo gỡ khó khăn vướng mắc để kích hoạt, tạo ra thị trường sôi động ở cả trong và ngoài nước. Khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ để làm tăng giá trị của rơm rạ.
Theo ông Robert Caudwell, Trưởng Đại diện IRRI tại Việt Nam, phải xem rơm rạ là một nguồn tài nguyên có giá trị cần được khai thác. Việc tận dụng rơm rạ có tiềm năng to lớn để thúc đẩy một nền kinh tế xanh ở châu Á, hỗ trợ nông nghiệp bền vững và tạo ra các dòng thu nhập mới cho nông dân thông qua việc chuyển đổi thành nhiều sản phẩm giá trị gia tăng như thức ăn chăn nuôi, phân bón sinh học và các vật liệu khác.
Tại Việt Nam, IRRI đã và đang tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng, HTX và đối tác để hỗ trợ nông dân phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn từ rơm và thực hiện các giải pháp quản lý rơm rạ bền vững, góp phần cùng Việt Nam thực hiện tốt Đề án một triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030.
Trong bối cảnh Chính phủ đã phê duyệt Đề án một triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp theo Quyết định 1490/QĐ-TTg và cam kết Net Zero đến năm 2050, quản lý rơm rạ không còn là một vấn đề kỹ thuật thuần túy, mà đã chuyển thành một trụ cột chiến lược của chuyển đổi xanh trong ngành lúa gạo. Nếu chúng ta không giải quyết triệt để câu chuyện rơm rạ, mục tiêu giảm phát thải và nâng cao chuỗi giá trị sẽ khó đạt.
Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, để giải quyết rơm rạ cần tập trung 3 vấn đề trọng tâm. Thứ nhất, cần hoàn thiện thể chế và khung pháp lý để công nhận rơm rạ là tài nguyên sinh khối, không phải phế phụ phẩm. Đồng thời, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về thu gom, bảo quản, vận chuyển, tái sử dụng, tạo nền tảng pháp lý cho thị trường rơm rạ phát triển bền vững. Thứ hai, tổ chức lại chuỗi giá trị với vai trò trung tâm của HTX, phát triển mô hình HTX cung cấp dịch vụ cơ giới hóa thu gom rơm, hình thành điểm tập kết, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp chế biến phân hữu cơ, biochar, viên nén sinh khối và ứng dụng công nghệ. Sự kết nối này sẽ đem lại nguồn cung ổn định, chia sẻ giá trị và tăng thu nhập cho nông dân. Thứ ba là phải huy động đồng bộ nguồn lực tài chính và tích hợp cơ chế carbon, như tận dụng gói tín dụng chuỗi, cơ chế hỗ trợ liên kết theo Nghị định 98/NĐ-CP... Đồng thời, sớm xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) cho rơm rạ, tích hợp vào cơ chế tín chỉ carbon, từ đó tạo động lực kinh tế rõ rệt cho người dân và doanh nghiệp tham gia mô hình bền vững.
Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG