Con trăng rằm cuối năm trôi lạc xuống cánh rừng lênh lênh sáng đùn đục. Ông bà lão mắc hai cánh võng hứng lấy dưới gốc cao su. Màu trăng đọng trũng lên đôi má hóp của ông lão, trơn tru lên mái tóc lốm đốm bạc.
Bà đong đưa:
- Anh lên mà không nhắn trước cho sắp nhỏ ra đón.
- Mới có dự tính hồi đầu hôm, sáng lên xe đi liền làm sao nhắn cho kịp. Đã hai lần chuẩn bị lên thăm cô mà không thành, sửa soạn đi thì thằng cháu nội nóng vô nhà thương phải trông coi nhà vừa hết tới đứa cháu ngoại. Rồi tới ai nữa đây... Thôi nóng lòng đi đại, trước thăm cô, sau hỏi thăm đứa em mất tích mấy mươi năm qua, nghe đâu nó ở vùng này!
Chừng như bà lão không chú ý đến câu nói của ông lão vì lo loay xoay buộc dây giăng võng vào gốc cây. Buộc xong, bà lão đến mâm trà rót vào ly đưa cho ông lão:
- Uống đi anh, trà Lâm Đồng ngon lắm, của đứa con gái em nó gởi về cho. Hôm trước vợ chồng nó về đây rước đi lên trển mà em không chịu. Anh coi, lên tụi nó cung phụng món ngon vật lạ đầy đủ. Nhưng buồn quá cứ ngồi khu khú trong nhà, đợi trưa, chiều nó đi làm về mới gặp mặt. Thằng Hai thì nó nài nỉ rước về thị trấn ở với nó nhưng cũng buồn, ở cái chòi giữ vườn này em chịu. Thấy vậy thằng Nam nó cho đứa con trai lên ở hủ hỉ với em. Làm như tuổi về già muốn quay về nơi tĩnh lặng, không thích ồn ào.
Gió rừng lang thang dắt díu nhau vuốt ve mơn man lên chòm tóc bạc lưa thưa trên đầu, ông lão thở ra hít vô thật nhẹ.
* * *
Bà lão bỗng thở dài:
- Còn một việc em ray rứt trong lòng ngót mấy mươi năm qua. Nó cứ ám ảnh, giằng xé, đôi khi chập chờn trong giấc ngủ. Năm ấy, sau khi anh về miền Tây độ nửa tháng, một trưa, em ra bờ suối gặp một thanh niên rửa mặt, có vẻ mệt mỏi lắm! Em nghĩ ở đây đâu có dân sinh sống, không phải thám báo thì ai? Em đi lòn phía sau vồ đá, bất thần chỉa mũi súng AK nạt gắt: “Giơ tay lên!”. Người thanh niên luống cuống sợ sệt: “Em! Em đi tìm chị mà!”. “Chị nào?”. “Em đi tìm bộ đội cách mạng”. “Để làm gì?”. “Đi theo”. Sự thật thà hiện rõ trong đôi mắt của người thanh niên. Nhưng em đề cao cảnh giác cho anh ta đi trước hai tay úp lên đầu không được để xuống. Vừa đi, em vừa hỏi: “Lý do nào anh đi tìm chúng tôi?” “Chị ơi! Ba em đi tập kết. Anh ruột cũng ra Bắc năm 1960, nghe đã về Nam rồi! Em ở nhà nuôi mẹ, lo tiền làm giấy nhỏ tuổi để khỏi bị bắt lính. Một hôm, em đi xuống nhà thương thăm má bị cảnh sát bắt. Chúng cho là giấy tờ giả. Chúng thảy em vô Trung Tâm Ba rồi đưa ra quân trường. Chúng lùa lên trực thăng đổ xuống miền đất đỏ này. Em bỏ trốn vào nhà dân, người ta cho quần áo, chỉ vô đây sẽ gặp anh chị. Em nói thiệt, đây là kỷ vật để làm tin”. Vừa nói, người thanh niên móc ra sợi dây đeo cổ. “Khỏi cần, cất đi!”. Tới một gò đất, em chỉ cho cậu ta ngồi ở đó.
Em ngồi bên này vẫn lăm le khẩu AK. “Bây giờ em muốn về với má hay ở với cách mạng? Về thì chị tìm cách đưa về an toàn. Ở lại gian nan lắm, em có chịu nổi không?”. “Về dưới cũng bị bắt lính, có nuôi má được đâu! Thôi ở với cách mạng để tìm ba và anh Hai”.
-Nghe câu nói có vẻ thiệt tình và đơn giản của cậu thanh niên, em cũng đôi chút cảm động. Bom đạn thì dày đặc, người thì trùng trùng lớp lớp, tìm cách nào đây? Nhưng em không nỡ để cho cậu ta thất vọng. “Nếu như vậy ở đây chị sẽ tìm cách giúp em, ít ra cũng hỏi thăm được tin tức về ba và anh!”.
* * *
Đơn vị em là một bộ phận bảo vệ bệnh viện tiền phương của Trung đoàn 141, Sư đoàn 7 chủ lực Miền, nên lúc nào cũng đặt nhiệm vụ an toàn cho thương binh lên cao hơn hết. Em được lệnh khẩn cấp ra nằm chốt. Chốt của em có ba đồng chí, em Hóa và Toàn. Ý kiến của Hóa là đưa thanh niên lạ về phía sau để cấp trên định đoạt. Cậu thanh niên xin đi theo ra chốt. Em lo ngại: “Biết bắn súng không?”. “Biết! Lên đạn bóp cò chớ gì!?”. Em cũng sợ cậu thanh niên lạ trà trộn đội hình, biết có gì không? Hơn nữa, việc này em chưa kịp báo cáo cấp trên, nên thuận cho cậu ta ở lại. Công sự vừa đào xong thì toán thám báo vừa bò tới. Em dặn cậu ta: “Phải thật bình tĩnh và không được nổ súng trước nhé! Bắn phải có mục tiêu và thật chính xác!”. “Em biết rồi!”.
Bốn tên thám báo lù lù đi lên bị hạ gục. Còn lại chúng tìm công sự đánh trả. Đợt tấn công thứ hai, chúng điên rồ bắn M.79 vô các mô gò đất mà chúng nghi là có công sự. Sau đó chúng bò lên. Những viên đạn tuy ít ỏi nhưng thật chính xác làm chùn chân những tên liều lĩnh. Bất thần, nhanh như sóc, cậu thanh niên nhào ra chỗ tên lính vừa giãy chết gỡ lấy dây ba chạc lựu đạn. Trời! Nguy hiểm quá! Nhưng không kịp. Em bắn để yểm trợ cho cậu ta. Về tới công sự an toàn thật may phước! Chúng lại mở cuộc tấn công mới. Phía trên sườn dốc, những trái lựu đạn của cậu thanh niên ném ra vô cùng hiệu quả, làm cho tan nát đội hình của toán thám báo. Cậu ta bị lộ mục tiêu, bị chúng bắn một quả M.79 ngay công sự. Em bò tới. Mặt cậu ta đầy máu me, cậu ta muốn nói cái gì đó mà chỉ nấc một tiếng rồi ngã gục xuống...
Ông lão bỗng ngồi bật dậy như cái lò xo:
- Cậu đó tên gì?
- Tên... Lâm, vì sau đó em phát hiện trong cái móng treo ở cổ có tên họ cậu ta.
- Tên Lâm à! Trời! Em ruột của anh đó!
- Ai có ngờ là em của anh đâu? Còn anh tại sao giữ kín miệng để tới hôm nay?
- Anh về quê được tổ chức móc nối cho má anh vô thăm. “Má bệnh nằm ở nhà thương, thằng Út nó có xuống thăm má, bị bắt lính, rồi chúng chở đi biệt tích luôn. Ngày nó còn ở quân trường má vô thăm, lượng trước cảnh bất trắc nên chọn miếng giấy nhỏ viết mấy chữ: “Trần Việt Lâm, con của Trần Việt Quân-cán bộ tập kết, anh là Trần Việt Phương cũng ra Bắc năm 1960, dân ở Cần Thơ” rồi gói lại thật nhỏ ép trong cái móng bằng nhôm cho nó đeo cần cổ. Sợ bị bọn lính phát hiện ra thì nguy nên má dặn Lâm: “Đây là bùa hộ mệnh của má thỉnh ở trên núi”. Khi gặp người của cách mạng thì mở ra.
- Em có gặp cái móng đó hay không?
- Có chớ. Hôm em cùng với các đồng chí làm nhiệm vụ chôn cất các liệt sĩ. Trong đó có Lâm, em tình cờ thấy bàn tay của Lâm nắm chặt một cái gì đó. Em mở ra xem thấy cái móng đem về làm kỷ niệm, không ngờ em lỡ tay đánh rơi. Cái móng rớt nghe lạ chừng như rỗng, em cạy ra xem. Nhiều lần em gặp người Cần Thơ kể về chuyện của Lâm nhưng vẫn bặt vô âm tín, không biết ông Quân là ai, Phương là ai!
- Phương là tên cúng cơm của anh đó!
- Bởi vậy cho nên...
- Số ngôi mộ đó bây giờ ra sao rồi?
- Năm đồng chí hy sinh trong trận đó cộng với Lâm là sáu, bốc về Đồng Xoài năm 1980.
Ông lão lặng lẽ một lúc lâu:
- Làm gì bây giờ?
- Thì... làm hồ sơ liệt sĩ cho Lâm.
- Phiền phức lắm em ơi! Ba mươi năm rồi giở ra làm gì...
- Hiện giờ thủ trưởng của đơn vị em còn sống, việc xác nhận cho Lâm cũng vô cùng thuận lợi:
Ông lão nhắm nghiền đôi mắt: “Linh hồn của chú ấy bây giờ chắc vui và thanh thản vì sẽ được nằm chung với các liệt sĩ.
- Em nghĩ, tội nghiệp cho chú ấy quá. Hy vọng gặp được cha và anh. Vì cha và anh, chú ấy bất chấp mọi hiểm nguy lội ngược vô rừng, nhưng chiến tranh quá khắt khe...
Ông Tùng than thở:
- Má anh lúc hấp hối cứ thều thào gọi tên Lâm... đến khi tàn hơi kiệt sức!
- Anh biết mặt chú ấy không?
- Không! Vì lúc anh đi Lâm chừng bốn, năm tuổi.
- Chú ấy giống anh như tạc.
* * *
Người quản trang dò tìm các ngôi mộ sau một lúc lâu:
- Đây rồi!- Ông ta kêu lên.
- Trong sáu ngôi mộ nằm song song hàng dọc, ngôi mộ vô danh đó!
Bà lão phủ phục trước tấm bia trống, khóc thật sự. Những giọt nước mắt đặc quánh lem nhem trên đôi má. “Chị có lỗi với em Lâm ơi! Hãy tha thứ cho chị nhé! Có những giây phút chị nghi ngờ em. Chị còn cái lỗi nữa là thời gian qua không làm cho em có cái tên đàng hoàng trong nghĩa trang như bao người khác. Tha lỗi cho chị nhé Lâm ơi!”.
Ông lão vẫn ngồi lặng lẽ, chốc chốc bật lửa đốt cây nhang cho đứa em không biết mặt. “Cuối cùng... rồi anh cũng nhận ra em, dẫu là muộn màng, nhưng còn hơn không!”
Bà lão nói thật khẽ như tâm sự với người dưới mộ:
-Ngày mai chị đi khắc tên bia cho phần mộ em. Ở đây với các đồng chí nhé! Có người qua hai cuộc kháng chiến, có người năm, mười năm. Còn em chỉ vỏn vẹn có 2 giờ đồng hồ, thật ngắn ngủi và cũng thật oanh liệt, có chị chứng nhận cho em đây!
Nắng đầu mùa khô Đồng Xoài khô quắt quéo nhưng trên phần mộ của “Liệt sĩ vô danh” còn sót lại một chấm hoa dại bé xíu...