Chúng tôi đến Khánh An (An Phú) và kinh ngạc với “mê cung” bãi khô nằm dài theo bờ sông Hậu. Bãi khô thuộc ấp An Hòa với nhà cửa nằm theo những con đường quanh co, ngoằn ngoèo vô rồi không biết lối ra. Người ta gọi nơi đây là bãi khô vì dài theo bãi, sát bờ bồi của dòng sông Hậu là hàng hàng lớp lớp những giàn tre, trên đó, buổi sáng nắng rực rỡ phủ những con cá đã xẻ phơi khô. Những người phụ nữ tay dao, tay kéo nhanh nhẹn làm vảy, moi ruột cá trước khi rửa sạch, ướp muối đem phơi.
Khô có nhiều loại, làm theo mùa cá, gồm: cá bông, cá bổi, cá tra... Ông Lê Văn Tứ, chủ một vựa khô tại địa phương, cho biết: bãi khô có hàng trăm nhà nhưng chỉ có khoảng 30 nhà là vựa còn lại là các gia đình làm việc ăn công.

Lồng bè nuôi cá trước Trung tâm Thương mại Khánh An.
Đứng từ bãi khô, nhìn thấy nhà cửa đông đúc dưới bóng cây xanh bên kia sông phất phơ lá cờ nước bạn. Ông Tứ giải thích với tôi đó là xã Prẹc Chạy, huyện Kor Thum, tỉnh Kandal, Campuchia (dân ở đây gọi tắt là “Cam”). Cảm giác đứng gần biên giới làm lòng chúng tôi xuyến xao khó tả. Chỉ cần mấy bơi chèo là chiếc xuồng đưa hàng từ bên kia biên giới qua đất Việt. Hàng ở đây ngoài các loại cá, phần lớn cá bổi từ Thái Lan qua đường Campuchia đến Việt Nam, vì nguồn cá “Cam” đã cạn kiệt. Cá bổi, cá bông Campuchia đã không còn có mặt từ nhiều năm nay. Cá bông tách bỏ xương làm khô hoặc cá bông lạn bỏ da tách bỏ xương phơi hai nắng hiện là mặt hàng xuất đi nước ngoài rất chạy của Khánh An. Dù có nhiều cá làm khô nhưng sông Hậu ở Khánh An bây giờ “sạch” hơn xưa khá nhiều. Hàng chục năm trước, mùa cá tháng 10 âm lịch, nhà nhà làm cá, đem xuống sông rửa, mỡ cá đóng thành giề trên mặt nước, không ai dám tắm.
Trung tâm Thương mại Khánh An nằm bên bờ sông Hậu, bên kia là xã Prẹc Chạy. Cuối trung tâm thương mại có một sạp bán một số loài bò sát như rắn, rùa. Rắn lục đuôi đỏ chen nhau lúc nhúc trong lồng. Chủ sạp giới thiệu rằng rắn dùng “trị bịnh ung thư”, đặc biệt công hiệu khi đốt thành than cà thành bột trộn dầu gió xanh hít trị bịnh viêm xoang mũi. Bên cạnh rắn là rùa, gồm rùa vàng, rùa nắp, đặc biệt có loại rùa núi hình chữ nhật ngộ nghĩnh. Rắn và rùa cũng là hai mặt hàng mua từ bên Campuchia. Hai dãy nhà hai bên Trung tâm Thương mại Khánh An bán nhiều loại hàng hóa đáp ứng nhu cầu người dân Việt và Campuchia. Thấy có nhiều tiệm bán vàng, loại trang sức mà người “Cam” rất ưa chuộng. Dân ở đây ai cũng nói tiếng Campuchia như “lặt rau” nên việc buôn bán gặp rất nhiều thuận lợi.
Dài theo con đường từ Trung tâm Thương mại Khánh An đến thị trấn Long Bình (An Phú), có một số “bãi” hàng từ bên kia biên giới qua sông. Đặc biệt, có tới 4-5 bãi hàng ốc đít bằng. Cô Nguyễn Thị Mỹ Châu, 30 tuổi, cho biết bên Campuchia có khoảng 11 lô nuôi ốc đít bằng. Trung bình một ngày cô nhập vào 4-5 tấn ốc. Ốc nhập về được công nhân phân loại, vô bao ni lông lớn chất chồng lên nhau trước khi cho lên xe tải chở tới Bình Triệu (TP Hồ Chí Minh) chuyển lên xe lửa đưa ra Hà Nội. Đặc điểm của ốc đít bằng là để lâu không chết và không bị sút thịt. Ngon lành hơn là lươn. Lươn từ Campuchia đưa sang nhiều vô số kể. Đó là những con lươn nhỏ cỡ ngón tay cái, dài “thườn thượt”, khai thác trong tự nhiên. Loại lươn này thịt mềm, dai, ngọt, hơn hẳn loại lươn nuôi. Chúng được “đóng thùng” đưa lên xe tải chở tới Tân Sơn Nhứt (TP Hồ Chí Minh), 2 tấn/chuyến, rồi theo máy bay sang Trung Quốc.
Chợ Long Bình (thị trấn Long Bình, An Phú) nằm bên sông Bình Di, nơi đổ ra sông Hậu. Bên kia sông là xã Chạy Thum, huyện Kor Thum, tỉnh Kandal, Campuchia. Nổi bật trên hàng cây xanh râm mát là mái ngói của một casino 2 sao. Người ta nói rằng casino này thu hút khá nhiều khách Việt Nam đến “vui chơi”. Có một bến phà riêng cách bến phà này chừng 500m, nơi khách có chỗ gởi xe du lịch trước khi qua đất bạn chơi bài. Kẻ chơi bài cạn túi, thiếu nợ thường bị giữ người chờ chuộc hoặc họ giữ xe người thua bài về nhà đem tiền lên lấy lại. Biết bao người lâm vào cảnh ngộ bi đát, vậy mà vẫn có người ham mê đỏ đen!
Theo con đường này một quãng chừng chục cây số là đến Búng Bình Thiên. Búng Bình Thiên là một hồ nước thiên nhiên có từ mấy trăm năm nay nằm trên khu vực gần biên giới thuộc 3 xã: Nhơn Hội, Quốc Thái và Khánh Bình thuộc An Phú. Tên gọi Búng Bình Thiên nhằm để diễn tả sự to lớn mênh mông như trời đất của nó (rộng trên 200ha). Người dân địa phương thường gọi là Búng Lớn. Mặt búng (hồ) lúc nào nước cũng trong xanh, phẳng lặng như tờ, nước không chảy. Búng có nhiều thủy sản, được người dân khai thác bằng nhiều phương tiện. Dài theo con đường bên bờ Búng Bình Thiên, thấp thoáng sau hàng cây xanh là những bè cá nằm rải rác trên búng, tạo cảnh quan thơ mộng. Ông Khaly cho biết bè nuôi các loại cá còm, rô phi, điêu hồng. Mỗi một bè sau 8 tháng nuôi, thu hoạch 700kg-800kg.
Vòng theo con đường quanh búng có nhiều vườn trầu ở Vạt Lài. Con đường đi qua những xóm Chăm, mà người Kinh gọi là “xóm Chà” hoặc “Chà Châu Giang”. An Phú có 5 xã có đông đồng bào Chăm cư ngụ, gồm: Quốc Thái, Nhơn Hội, Khánh Bình, Đa Phước, Vĩnh Trường. Theo nhà nghiên cứu dân gian Lâm Tâm, “trước thế kỷ thứ XVII, người Chăm Hồi giáo Nam Trung bộ đã di cư lên Campuchia. Đến năm 1699, chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hữu Kỉnh) đem quân lên Campuchia giúp vua Nặc Ông Thu giải quyết nội bộ nhà vua tranh giành ngôi vị, đàn áp, tàn sát lẫn nhau, kể cả chống lại chúa Nguyễn, với tàn sát, áp bức, bóc lột người Chăm nặng nề... Nên sau khi giải quyết xong, Nguyễn Hữu Cảnh rút quân về Nam bộ, một số người Chăm chạy theo ông về cư trú ở Tây Ninh. Vào năm 1840, khi Khâm sai đại thần nhà Nguyễn Lê Văn Đức, Phó Khâm sai Doãn Uẩn cùng với Trương Minh Giảng từ Campuchia (trấn Tây Thành) rút lui về Châu Đốc, một số người Chăm Hồi giáo theo làm binh lính, thân binh, cận vệ, nổi tiếng là quân thiện chiến của nhà Nguyễn. Họ cùng gia đình, thân nhân rút theo đoàn ông Lê Văn Đức về cư trú dọc sông Hậu Giang và Khánh Bình, trong tỉnh An Giang từ đó đến nay” (*). Theo Sơn Nam thì “tình thế loạn lạc ở Cao Miên thúc đẩy người Mã Lai cư ngụ tại U Đông di cư xuống vùng biên giới Châu Đốc, họ kết hợp với người Chăm từ Bình Thuận tràn qua. Nhờ điểm tương đồng về tôn giáo (Hồi giáo), họ trở thành nhóm “Chà Châu Giang” (tỷ lệ Mã Lai 1 phần 10, Chăm 9 phần 10) đã từng phục vụ đắc lực trong quân đội triều đình đời Minh Mạng” (“Tìm hiểu đất Hậu Giang & Lịch sử đất An Giang, tr. 71, NXB Trẻ, 2003).
Chúng tôi như lạc bước vào xứ sở Ngàn lẻ một đêm với những cô gái, chàng trai Chăm với y phục đặc trưng của dân tộc mình: Các cô gái Chăm tha thướt trong chiếc “ao tunic” (áo dài), duyên dáng với chiếc “khanh maom” (khăn thêu) trùm kín mái tóc. Các chàng trai Chăm trang trọng trong trang phục “ao karung” (áo dài nam), quấn “xà rông”, đội “mượt” (nón). Vùng này có nhiều căn nhà sàn với lối kiến trúc đặc trưng của đồng bào Chăm Hồi giáo. Nhưng thu hút hơn cả ngôi thánh đường Mas Jid Khoy Ri Yah với mái vòm hình củ tỏi được thiết kế bằng tôn, sáng trưng trong màu nắng. Đây là nơi diễn ra lễ hội Royal Phitrok sau tháng chay Ramadam. Có thể nói lễ hội này là ngày Tết của đồng bào Chăm nên mọi người cùng nhau vui chơi lành mạnh với nhiều món ăn đặc trưng, nhưng đặc biệt bà con không hề nếm một giọt rượu. Có lẽ vì vậy không khí rộn rịp, đông đảo người tham dự, nhưng lễ hội Royal Phitrok vẫn đảm bảo được an toàn, an ninh.

Cây da cổ thụ 400 năm.
Cách Trung tâm Thương mại Khánh An khoảng 3km là giồng Cây Da. Tại đây tồn tại cây da cổ thụ, khoảng 400 năm - một trong 3 cây đại thụ tồn tại ở An Giang. Bà Nguyễn Thị Lệ, 52 tuổi, kể bà nội bà (mất năm 90 tuổi) cho biết khi về làm dâu đất này đã thấy cây da. Theo người địa phương thì bề hoành của cây da chừng 24m (phải có tới 18 người lớn căng tay mới vòng quanh gốc). Tàn cây da che rợp cả công đất. Cây da này được ghi vào kỷ lục Việt Nam.
An Phú là huyện biên giới, là cái nôi căn cứ dừng chân cũng như tuyến giao liên từ Trung ương Cục miền Nam về các tỉnh miền Tây Nam bộ. Bà con kể rằng hồi kháng chiến chống Pháp, giồng Cây Da từng là địa điểm để Đội Thiếu niên Tiền phong tập võ, múa gươm, đánh kiếm, sử dụng boa-nha, mã tấu. Đây còn là căn cứ, doanh trại của cán bộ, du kích xã; là nhân chứng rất đáng tự hào trong 2 cuộc chiến tranh oanh liệt của nhân dân An Phú...
Là một huyện của tỉnh An Giang, An Phú có người dân đến lập nghiệp từ đầu thế kỷ 18, hình thành nhiều làng xã từ thời Gia Long, khi vua kêu gọi khai khẩn đất hoang vùng Châu Đốc Tân Cương. Năm 1832, vua Minh Mạng xóa bỏ Gia Định thành và ngũ trấn lập nên 6 tỉnh Nam kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên), gọi là Lục tỉnh, địa bàn An Phú thuộc tổng Châu Phú, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Sau nhiều đổi thay tên gọi, địa giới, đến nay An Phú là huyện đầu nguồn, nơi sông Hậu bắt đầu đi vào đất Việt, người dân An Phú sống trong cảnh “nửa năm đạp đất đồng khô, nửa năm dầm chân trong sóng nước”.
Cái mỏm đất Long Bình, Khánh An của An Phú nhô cao vào đất “Cam” 5km với ba mặt Tây, Bắc, Đông là biên giới đã gây cho bất cứ ai khi đến đây nhiều cảm xúc.
Bài, ảnh: CÚC TẦN
(*) “Một số tập tục người Chăm An Giang”, tr. 14-15, Chi hội Văn nghệ dân gian An Giang, 1994.