Thiết thực kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2023), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức nhiều hoạt động tri ân các anh hùng, liệt sĩ, người có công cách mạng, đặc biệt là tri ân các cựu tù chính trị tại Côn Đảo. TP Cần Thơ có 3 đại biểu đại diện các cựu tù chính trị từng bị địch giam cầm tại Côn Đảo, tham dự Họp mặt cựu tù chính trị Côn Đảo và các hoạt động tri ân ý nghĩa. Phóng viên Báo Cần Thơ đã gặp gỡ, ghi lại những cảm xúc của 3 vị đại biểu trước lúc lên đường dự các sự kiện tại Côn Đảo.
* Ông Phan Thanh Sĩ, nguyên Chủ tịch Ủy ban MTTQVN TP Cần Thơ:
Sáng mãi tinh thần đấu tranh cách mạng bất khuất nơi “địa ngục trần gian”
Ba tôi tham gia kháng chiến chống Pháp và bị địch bắt, sau đó ngã bệnh mất năm 1950. Tôi sớm giác ngộ cách mạng, từ năm 1960, tôi tham gia phong trào học sinh - sinh viên khi đang học tại Trường Phan Thanh Giản (nay là Trường THPT Châu Văn Liêm, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ). Tôi được giao nhiệm vụ đưa thư, rải truyền đơn, gầy dựng cơ sở cách mạng. Trưa ngày 21-5-1968, tôi bị địch bắt khi làm nhiệm vụ tại Xóm Chài và bị giam tại nhiều nơi khác nhau, sau đó chuyển đến Khám lớn Cần Thơ. Đến năm 1969, tôi cùng đồng đội tổ chức vượt ngục, cuối cùng có 4 người vượt ngục thành công, còn 2 người (trong đó có tôi) bị bắt lại. Tòa án ngụy tuyên tôi tù chung thân và di lý tôi về nhà tù Chí Hòa giam cầm. Khoảng tháng 5-1972, tôi bị đưa ra Côn Đảo và bị giam cầm tại nơi “địa ngục trần gian” đến ngày đất nước giải phóng.
Qua mấy tuần lễ bị o ép, tra tấn đánh đập, còng xiềng và đói khát, chúng đến từng phòng ra điều kiện: Ai chấp nhận chào cờ sẽ được ra ngoài thoải mái, có việc làm và ăn uống đầy đủ. Nếu không chấp nhận thì đẩy vào cầm cố, biệt giam. Anh em đồng lòng thà bị cầm cố chứ không ra chào cờ. Sau đó, địch chuyển anh em tù chính trị xuống Trại VIII (trại cầm cố) mới thành lập. Bọn cai ngục thẳng tay đàn áp tù chính trị, chúng đóng cửa gió, xả hồ nước, không cho tắm giặt, không phát nước uống, bỏ đói. Giữa trưa và đêm đến, dùng thanh sắt gõ mạnh vào cửa sắt gây tiếng ồn nhức óc, đinh tai. Trong các buổi lấy thuốc, tắm nắng, tôi tìm cách liên lạc với tù chính trị có tham gia tổ chức chi bộ. Chúng tôi phát động nhiều cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ như: cơm ăn đủ bữa, đủ no, thuốc men đầy đủ, nước uống phải đun sôi, được gửi và nhận thư từ, bưu phiếu, bưu phẩm của gia đình và cuối cùng là để anh em tù chính trị được quản lý nhà bếp tự phục vụ.
Thời gian ở phòng 4 Trại VIII là thời gian liên tục đấu tranh, lãnh đạo chi bộ phân công tôi làm nhiệm vụ thông tin liên lạc và thảo nội dung thông báo để ban lãnh đạo duyệt, rồi dùng loa thông báo ra ngoài các yêu sách đòi địch giải quyết, đồng thời đánh “morse” liên lạc qua các phòng bên cạnh để thống nhất hành động đấu tranh. Tiếp đến, địch có âm mưu dồn trại, chúng đưa phần lớn anh em về Trại V, trong đó có tôi. Vào Trại V, tôi gặp lại các đồng chí người Cần Thơ cùng công tác chung chi bộ hồi phong trào học sinh trước năm 1968. Chúng tôi phát động đấu tranh đòi được quản lý nhà bếp, bệnh xá, bố trí phân công người có chuyên môn, có sức để ra phục vụ anh em. Chúng tôi tổ chức sinh hoạt học tập chính trị, văn hóa, phong trào văn nghệ, kể cả viết sách báo, ra tập san (nội bộ), tổ chức các ngày lễ, kỷ niệm. Thông tin quân ta giải phóng nhiều nơi cũng đã tác động rất lớn trong hàng ngũ của địch.
Ký ức về những năm tháng bị giam cầm ở Nhà tù Côn Đảo, tinh thần đấu tranh bền bỉ, quật cường của những chiến sĩ cách mạng kiên trung vẫn in đậm trong tâm trí của tôi. Sau ngày thống nhất đất nước (1975), tôi tiếp tục tham gia công tác, kinh qua nhiều vị trí khác nhau, giữ chức Chủ tịch Ủy ban MTTQVN TP Cần Thơ giai đoạn 2007-2009. Sau nghỉ hưu, từ năm 2010, tôi làm Phó Chủ tịch, rồi Chủ tịch Hội Người tù kháng chiến TP Cần Thơ (từ năm 2015 đến nay). Hội là mái nhà chung của các cựu tù, thường xuyên nắm bắt thông tin, tổ chức nhiều hoạt động chăm lo hội viên có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, phát huy vai trò nhân chứng lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ. Tôi cũng luôn nhắc nhở 2 con (đang công tác trong ngành công an và trường đại học) luôn tu dưỡng, rèn luyện, xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cách mạng đi trước. Dù cơ thể nhiều thương tật, nhưng tôi may mắn hơn các cựu tù chính trị, tôi vẫn khỏe và nguyện sẽ tiếp tục hoạt động với mong muốn kết nối, chăm lo tốt cho hội viên và là cầu nối lịch sử thắp lên ngọn lửa tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ.
Q. THÁI (ghi)
* Ông Nguyễn Tấn Phát, nguyên Chủ tịch Hội Người tù kháng chiến TP Cần Thơ:
Luôn tự hào về tinh thần đấu tranh bất khuất của các chiến sĩ tù chính trị ở Côn Đảo
Tôi là tù chính trị Côn Đảo giai đoạn 1957-1965. Tôi bị địch bắt ngày 29-6-1957 nhưng đến ngày 3-12-1957 chúng mới đưa tôi ra Nhà tù Côn Đảo. Lúc đó, chúng tôi thuộc diện tù chính trị câu lưu, tức chưa bị kết án. Nguyên nhân là trước đó chúng tôi có nhiều cuộc đấu tranh, phản đối sự hà khắc của chế độ Ngô Đình Diệm đối với tù chính trị tại Gia Định - Sài Gòn. Địch đã dùng nhiều biện pháp tra tấn, dụ dỗ nhưng không thuyết phục được chúng tôi theo “quốc gia”…
Gần 66 năm đã trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ như in buổi sáng đầu tiên ở Côn Đảo. Sau một đêm lênh đênh trên biển, chiếc tàu há mồm của địch đưa chúng tôi đến Cầu Tàu 914. Cầu Tàu được Pháp khởi công xây dựng 1873, với chiều dài hơn 100m. Gọi là Cầu Tàu 914 vì có 914 tù nhân yêu nước đã hy sinh khi phục vụ xây dựng cầu tàu. Chúng tôi vừa lội lên bờ thì địch dùng cây gỗ đánh hòng áp đảo tinh thần. Sau 10 phút đánh phủ đầu, một tên mang quân hàm đại úy ra bảo: “Ai theo “quốc gia” thì qua một bên trái, ai theo cộng sản thì qua bên phải”. Một số người bước qua bên trái. Nhưng tôi và nhiều tù chính trị khác bước qua bên phải. Địch tiếp tục đánh đập chúng tôi trước khi đưa về Trại I…
Thời gian đầu, chúng tôi đấu tranh bảo vệ khí tiết của đảng viên cách mạng bằng cách chống xúc phạm đến khí tiết đảng viên; chống việc xúc phạm uy tín của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chống khai báo, chống ly khai Đảng, chống học “tố cộng”, chống chào cờ ngụy… Nhưng hình thức đấu tranh lúc đó là bị động. Tháng 8-1962, tôi và nhiều tù chính trị bị địch đưa về đất liền. Trước khi lên tàu, chúng tôi tranh thủ thời gian để trao đổi với nhau. Mọi người thống nhất từ đây về sau sẽ chủ động đấu tranh với địch...
Trong các năm 1962, 1963, địch đưa tôi và 52 tù chính trị Côn Đảo giam ở nhiều nơi thuộc Bình Dương, Biên Hòa (Đồng Nai), Huế, Quảng Trị, Đà Nẵng… Tại các nhà tù, chúng tôi đã lãnh đạo anh em đấu tranh. Biết chúng tôi về từ Côn Đảo, anh em tù chính trị rất tôn trọng, chăm sóc chúng tôi. Trong thời gian ở đất liền, chúng tôi vừa đấu tranh giữ khí tiết của người chiến sĩ cách mạng, chống lại hà khắc của chế độ Ngô Đình Diệm, vừa dạy nhau học chữ, học tiếng Anh.
Tháng 2-1964, địch đưa chúng tôi trở lại Côn Đảo. Tôi và các tù chính trị tại Trại I đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh. Trong đó, nổi bật là cuộc đấu tranh tuyệt thực 22 ngày đêm vào năm 1964. Trước đó, đời sống của tù chính trị rất cực khổ vì địch cắt bớt thức ăn, nước uống; bít kín các cửa sổ để làm phòng giam ngột ngạt. Ngày 6 và 7-6-1964, có 136 tù chính trị ở các phòng giam 5,7,8 tuyên bố tuyệt thực. Đến ngày 9 thì có thêm 65 tù chính trị ở phòng 4 hưởng ứng. Chúng tôi yêu cầu địch phải chấp nhận các nội dung chính: giải tỏa cầm cố, mở cửa cho ra ngoài tắm giặt, tắm nắng; cải thiện bữa ăn hằng ngày; được cấp quần, áo, chăn, chiếu; cấp thuốc men chữa bệnh cho tù nhân; được tự do thư từ với gia đình, tương trợ nhau…
Địch dùng nhiều cách để xoa dịu, mua chuộc; phá hoại cuộc tuyệt thực bằng cách trộn phòng để chúng tôi không thể liên lạc, lãnh đạo cuộc đấu tranh. Trong thời gian đấu tranh với địch bằng cách tuyệt thực, có 4 anh đã hy sinh là Nguyễn Văn Nghĩa, Đoàn Khôi, Bùi Dự, Lê Minh Đức. Cuộc tuyệt thực đã tạo tiếng vang lớn tới đất liền. Trong các ngày 24 và 25-6, các phái đoàn Tổng nha cải huấn, Phủ Thủ tướng, Bộ Nội vụ của địch đã ra Côn Đảo nắm tình hình. Sáng 27-6, cuộc tuyệt thực kết thúc khi địch chấp nhận giải quyết các yêu sách của chúng tôi. Đây là cuộc tuyệt thực dài ngày nhất trong lịch sử Nhà tù Côn Đảo.
PHẠM TRUNG (ghi)
* Ông Lý Xuân Sang, cựu tù chính trị Côn Đảo, thương binh 4/4, ngụ quận Bình Thủy, TP Cần Thơ:
Trong gian khó càng phải vững niềm tin
Đối với tôi, 5 năm ở Côn Đảo là ký ức không thể nào quên. Nơi đó không chỉ là trường học tôi luyện ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng, mà còn chan chứa tình yêu thương của những người đồng đội cùng chung chí hướng.
Tôi sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng, nhiều người thân tham gia kháng chiến. Từ nhỏ, tôi đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng. Năm 1960, tôi học tại Trường Phan Thanh Giản và là cán bộ học sinh vận của Thị đoàn thị xã Cần Thơ. Tôi tham gia chống quân sự hóa hợp pháp trong nhà trường, sau đó bị bại lộ, phải bỏ trốn. Năm 1962, tôi được tổ chức điều lên Sài Gòn, hoạt động ở Khu đoàn Sài Gòn, là ủy viên Ban cán sự học sinh Sài Gòn. Tôi được giao nhiệm vụ phụ trách học sinh trường tư Sài Gòn, thường có mặt trong các phong trào biểu tình của học sinh, sinh viên thời ấy. Ngày 9-5-1965 tôi bị bắt, đưa về Tổng nha, bị đánh đập, tra tấn nhưng tôi quyết không nhận tội. Sau đó, tôi bị kết án 5 năm tù ở, 10 năm biệt xứ với tội danh phá rối trị an có thể gây thành cuộc bạo loạn chính trị, rồi bị đưa ra Côn Đảo cùng 470 tù nhân khác. Lúc đó, tôi mang tên Lý Minh Chánh, sinh năm 1943 (tên thật là Lý Xuân Sang, sinh năm 1940 - PV).
Ngày đầu tiên bị đưa vào phòng 10 Trại 4, tôi chống chào cờ và bị tra tấn dã man. Những ngày sau đó, tôi bị còng chân cùng nhiều người khác, nằm sấp, bị đánh bầm dập đôi chân, đớn đau không tả xiết. Chúng tôi bị đánh bất cứ lúc nào, bất kể lý do gì. Trong gian khổ, anh em bạn tù càng thương nhau hơn, động viên, an ủi, sớt chia từng ngụm nước, viên thuốc. Sau thời gian bị hành hạ, mang thương tích nặng, thấy tôi không ổn, địch đưa tôi đến phòng 12 Trại 3, rồi chuyển đi nằm viện 1 tuần.
Tiếp đó, chúng đưa tôi và một số anh em đi làm ở sở củi. Mỗi ngày vô rừng đốn củi rất vất vả. Ai không làm tốt theo yêu cầu hoặc chưa đạt chỉ tiêu thì bị đánh đập. Anh em canh những lúc lính không để ý, người khỏe phụ người yếu hơn. Chúng tôi ăn uống rất kham khổ, nhiều khi thấy giòi trộn chung với mắm ruốc, cá khô nhưng ráng nuốt cho qua. Sức khỏe kém cộng với lao lực khiến nhiều anh em bệnh nặng, không qua khỏi… Trong gian khó, chúng tôi càng giữ vững niềm tin vào lý tưởng cách mạng của mình.
Sau hơn 3 năm đi đốn củi, khi gần hết án, tôi được chuyển về phòng nội trại. Những ngày ở đây, nghe tin Bác mất, chúng tôi buồn vô hạn. Trong đêm, tôi và gần 100 bạn tù chung phòng cùng hướng về phương Bắc để tưởng niệm Bác. Năm 1970, kết thúc 5 năm tù, địch đưa tôi về Chí Hòa, rồi lại đưa lên Biên Hòa với mục đích đày biệt xứ. Tuy nhiên, tôi trốn được về Cần Thơ, móc nối lại với tổ chức, tiếp tục hoạt động bí mật trong nhiều vỏ bọc khác nhau… Năm 1986, tôi xin nghỉ theo chế độ thương tật. Trong quá trình công tác, tôi được nhận nhiều phần thưởng, bằng khen, giấy khen các cấp, trong đó có Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Kỷ niệm chương Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày; Kỷ niệm chương có công đóng góp vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ TP Hồ Chí Minh…
Hơn 30 năm qua, từ khi vợ mất, tôi nỗ lực nuôi dạy các con nên người. Hiện 5 người con của tôi đều học hành đàng hoàng, có công việc ổn định, các cháu nội, ngoại ngoan ngoãn. Tôi luôn nêu gương và nhắc nhở con cháu sống tốt, chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tôi tích cực tham gia các mặt công tác ở địa phương. Trong thời gian làm Chủ tịch Hội Người tù kháng chiến phường Bình Thủy, tôi cùng Hội quan tâm, chăm lo các chế độ cho hội viên. Trong các buổi sinh hoạt, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, tôi thường động viên các cháu nỗ lực học tập, cống hiến, góp phần xây dựng quê hương.
KIỀU CHINH (ghi)