23/04/2023 - 09:49

Những cánh chim bay về 

Truyện ngắn: Trần Văn Thiên

Đó là những ngày gió thổi ròng rã trên những tàu lá chuối sau nhà. Tôi ngồi ở hốc nhỏ quen thuộc, để bóng tối nhấn chìm, nghe mưa hắt lành lạnh giữa từng đợt gió. Có lẽ mỗi đứa trẻ trên đời đều có một hốc nhỏ của riêng mình như tôi, dành cho những khi lòng ấm ức, giận hờn hay buồn bã. Tôi nhìn qua khe hở, ngoài kia biển và trời nhạt nhòa như hòa thành một, vài đốm sáng le lói giữa mù sương làm lòng tôi thêm trống trải. Tôi từ từ thiếp đi giữa tiếng mưa day dứt.

*     *     *

Bà ngoại kể, ngày xưa ông tôi có một chiếc ghe đi biển, là của ông cố để lại. Ghe nhỏ nên ông chỉ đánh cá ở vùng biển gần bờ. Chiếc ghe cũ lắm rồi, nắng gió ràn rạt đã làm nó bạc mòn. Năm đó, ông tôi muốn lên thị trấn học tiếp, nhưng nhà chỉ đủ ngày hai bữa cơm, đường đi lại trắc trở nên ông phải ngậm ngùi bỏ học, rồi đi biển như bao đứa trẻ làng chài khi lớn lên. Ông đi biển nhưng lòng ông không thuộc về biển. Trận bão năm ấy đã cuốn chiếc ghe tan tành theo con sóng dữ. Sáng hôm sau, ông vẫn dửng dưng, chỉ có bà tôi vừa đi dọc bờ cát nhặt từng mảnh vụn vừa khóc.

Không đi biển nữa, ông xuôi ngược làm ăn xa, mỗi bận đằng đẵng mấy tháng trời. Cậu tôi lớn lên, ông cấm không cho đi biển. Nhưng biển đã hút hồn cậu bởi vẻ bí ẩn của muôn trùng con sóng trắng ngoài khơi xa. Năm đó mùa bão đến sớm, ông tôi vẫn biền biệt. Cậu khi đó 16 tuổi, lén ông đi biển lần đầu tiên. Nhưng cũng là lần cuối cùng. Cậu đã không trở về.

Ông sa vào men rượu cũng từ độ đó. Có lần ông nhìn thẳng vào mặt bà, quát lớn: “Bà không thương thằng Hai nên mới để nó đi biển. Tại vì nó là con của bả nên bà không thương!”. Rồi ông khuỵu gối xuống trước nhà, khóc khàn đặc trong tiếng gió biển ráo riết đuổi nhau. Bà tôi lặng người. Mấy chục năm trời, mà vết thương trong lòng ông vẫn chưa thôi nhức buốt.

Ðể rồi có những chiều thưa gió, bà nằm im lìm trên cánh võng nhìn khói nắng vàng hanh xuyên qua khung cửa, tự hỏi bâng quơ có phải ngày xưa ông tôi cố tình neo ghe lại nơi đó, để sóng biển dồn lên đánh tả tơi. Chiếc ghe đâu có tội tình gì, tự số phận đã không cho ông được đến với người con gái ông phải lòng thời trẻ. Người con gái nơi thị trấn đã sinh cho ông một đứa con trai, mà sau này tôi gọi bằng cậu. Người đó không quen với gió biển, nắng ran, nên cùng ông ấp ủ một chuyến đi đến nơi không bị biển trời vây bủa. Nhưng bệnh tình của cố tôi đã ngăn chân ông. Lòng ông đắng đót vỡ theo trăm ngàn con sóng.

Có nhiều đêm cơn say của ông thành bão qua ngôi nhà, bà thức trắng giấu mình vào bóng tối. Mẹ trở người nằm quay lưng về phía tôi, tôi quờ tay sang chạm mặt gối ướt đầm. Nhìn mẹ lặng lẽ kéo tấm mền mỏng che đôi vai gầy, tôi thầm trách sao cha chẳng chịu trở về. Mùa xuân năm tôi lên mười, chẳng phải cha đã hôn vào hai má của tôi và hứa chỉ xa tôi một mùa xuân này thôi, khi hoa từ bi nở tím hết cồn cát sau nhà thì cha sẽ về. Tôi cứ đợi và những bông từ bi nở tím rồi cũng tàn lụi mấy mùa. Một lần tan học về sớm, tôi lén nghe bà thở dài với mẹ, rằng ông nhất định không cho lọt ra ngoài chuyện cha tôi trốn chủ ghe vào bờ, có con rồi ở lại bên một người phụ nữ khác. Cha bỏ lại tất cả và vui với tổ ấm mới ở vùng đất rất xa.

Nhưng chuyện cha tôi bỏ đi rồi cũng râm ran khắp xóm. Họ bảo vì có người cha vợ nát rượu là ông, ngày nào cũng giày vò cả nhà, nên cha mới phải trốn chạy. Mấy đứa nhóc xóm dưới thì nói rằng tôi hư nên mới bị cha bỏ, tôi lao vào chúng và mẹ của chúng đã làm ầm ĩ ở nhà tôi. Họ nói mẹ tôi là cô giáo, dạy đời mà chẳng biết dạy con, lại còn không giữ được chồng. Thấy mẹ chỉ lặng im ngồi vá lưới, họ được thế, đay nghiến cả bà tôi, rằng đời mẹ y hệt đời con, sống sao mà chồng không thương, người ở đây mà lòng thuộc xứ khác...

Tôi bỏ chạy, tìm đến ngồi trong hốc nhỏ, gió lạnh thỉnh thoảng làm buốt từng vết thương.

*     *     *

Mùa biển động năm ấy, ông tôi đổ bệnh. Mẹ và bà đã đưa ông đi chạy chữa nhiều nơi nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu. Sớm chiều ông nằm bên ô cửa sổ hướng ra biển, giấc ngủ chập chờn theo con sóng bạc đầu vỗ vào bờ mải miết. Mùi của thuốc men thay mùi rượu nồng thường trực. Giọng nói cộc cằn tự lúc nào đã tắt trên môi ông, giờ chỉ còn những tiếng thì thào nhẹ như khói.

Những ngày ông tôi bệnh, chú Thuần hay ghé sang nhà phụ mẹ và bà. Bởi vì có biết bao nhiêu việc cần bàn tay đàn ông khi mùa bão tới. Chú Thuần là bạn đi biển của cha tôi, gần như quanh năm chú lênh đênh trên biển, bởi ngôi nhà nhỏ của chú ở cuối con dốc không còn ai. Mùa biển động, chú sang nhà tôi xin vài hom khoai mì về dặm bên hàng rào dâm bụt, dọn sạch cỏ vườn để lên liếp chuẩn bị trồng rau.

Một chiều tôi nằm võng đung đưa nghe bà kể chuyện, mới biết ngày ấy cả cha tôi và chú Thuần đều thương mẹ. Nhưng tính chú hiền lành, nhường nhịn. Thoáng chốc mười mấy năm mà chú vẫn một mình. Bà vừa nói vừa xót xa nhìn ra trước ngõ, lúc này chú Thuần đang loay hoay chặt bớt nhánh cây, khi đài báo chỉ vài ngày nữa là bão về.

Ông tôi mất vào đêm bão về. Tôi nhớ ánh nhìn lần cuối ông trao cho bà. Bóng tối đã tan hết ở hai trũng mắt sâu. Bà ngồi bên ông thật lâu, giữa tiếng biển khơi muôn trùng vọng lại. Tôi chui vào hốc nhỏ của mình, khóc nghẹn. Dẫu lúc say hay tỉnh, ông chưa bao giờ la mắng tôi. Tôi nhớ bài hát ru vụng về mà ông thường ru tôi những khi không chếnh choáng trong men rượu, giờ đã mãi tan vào tiếng sóng mênh mông.

Tỉnh dậy nhìn ra ngoài khe hở, giữa màn mưa giăng, tôi thấy dáng mẹ ngã khuỵu xuống và bóng chú Thuần từ xa tiến lại nâng mẹ đứng lên, rồi ôm chầm lấy mẹ. Tim tôi đập mạnh, một ý nghĩ lướt qua đầu. Tôi đã bất hạnh biết mấy khi phải lìa xa cha tôi và ông ngoại. Giờ không thể để ai khác cướp mẹ của tôi đi nữa. Tôi đứng dậy, chạy vòng ra phía vườn cây. Gió bấc tạt vào hàng bạch đàn vun vút, khua đám lá rụng se sắt trên máng xối hiên sau. Tôi thét lên: “Chú không được làm vậy với mẹ cháu!”. Chú Thuần thảng thốt buông tay. Mẹ tôi lặng đi rồi khóc. Chú Thuần bối rối bước lùi ra sau, ngập ngừng: “Chú, chú xin lỗi…”.

*     *     *

Ðã mấy năm rồi chú Thuần không về lại xóm biển. Tôi hay nhìn sang ngôi nhà nhỏ của chú. Mảng tường loang lổ in vài đốm nắng liêu xiêu, cánh cửa sổ màu xanh bị gió giật bong mất chốt gài. Mảnh vườn sau nhà cỏ đã mọc kín trở lại, phủ lên mấy luống đất còn chưa kịp gieo hạt năm ấy.

Có người bảo chú đã bỏ nghề đi biển, vợ con êm ấm ở xứ khác. Cũng có người ngậm ngùi nói chú đã mãi đi xa, giữa biển trời lênh đênh sóng gió vây bủa. Nhưng tôi tin vào linh cảm của mình. Tôi vừa lớn lên vừa đợi chú về. Tôi nợ chú Thuần một lời xin lỗi.

Một ngày đầu hạ năm tôi mười sáu, hôm ấy màu nắng rất trong sau những cơn mưa dài, tôi nghe tin chú Thuần về lại ngôi nhà cũ. Nhìn ra phiến lá bạch đàn long lanh nắng, tôi thấy lòng mình vui mừng quá đỗi. Nhưng lúc ấy tôi cũng bối rối tự hỏi không biết khi gặp lại, phải mở lời với chú từ đâu. Quẩn quanh nghĩ ngợi đến chiều, tôi quyết định đem mấy trái dừa mới hái sang tặng chú. Ðã đến lúc câu xin lỗi mà tôi ấp ủ, dằn vặt mấy năm qua được nói ra thành lời.

Chú Thuần đang ở ngoài vườn, tỉ mẩn gieo hạt xuống nền đất phủ rơm. Thấy tôi đến, chú Thuần nhìn tôi, cười hiền hậu, ấm như mặt trời vừa đội biển nhô lên.

- Cháu xin lỗi… xin lỗi chú nhiều, chú ơi! - tôi cắn môi lắp bắp.

Chú cười xòa, xoa đầu tôi. Chú Thuần đã về, tôi chờ được thấy những giọt nắng mới reo vui trong mắt mẹ. Tôi nhớ lại ánh nhìn ông dành cho bà lần cuối, bắt gặp giấc mơ xanh màu biển cả. Trong trái tim của biển, chú Thuần cũng gửi lại một phần giấc mơ.

Chia sẻ bài viết