Truyện ngắn của TRẦM NGUYÊN Ý ANH
Tưới xong vồng cải cuối cùng, già Năm úp cái thùng tưới bên đống đồ nghề dùng làm rẫy của mình rồi thủng thẳng tới ngồi xuống cái võng dù giăng dưới tán hai cây xoài. Già lấy bịt thuốc giồng, vấn một điếu bằng ngón tay út rồi le lưỡi liếm một đường vào mép miếng giấy quyến. Cái hộp quẹt “díp-bô” đã theo già từ hồi còn trai trẻ, phựt lên ngọn lửa xanh sau cái “tách” điệu nghệ. Già đốt thuốc rồi rít một hơi dài, nhả khói. Chiều êm đềm buông. Vài vạt nắng hấp hối trên mấy lùm đủng đỉnh, mấy cánh cò trắng chao nghiêng, tiếng bìm bịp buồn buồn báo giờ nước lớn, trời đã trở chướng... tất cả, tất cả như đang bện chặt, quấn lấy trái tim già nua của già.
Già Năm từng bước chậm chạp đi qua khu mộ. Già bước vào nhà tưởng niệm, đốt một bó nhang lớn rồi lần lượt cắm mỗi cây vào mỗi bia mộ. Cái công việc nầy, già đã làm bao nhiêu lần rồi, già không nhớ nữa. Chỉ biết, từ khi nghĩa trang Liệt sĩ huyện được khánh thành đến nay, già đã có mặt. Già tự tay cất cái chòi nhỏ sát góc nghĩa trang. Già đã chọn cho mình một cuộc sống thoải mái và ý nghĩa. Danh lợi có là gì đâu! Ngày thống nhất đất nước, già vừa qua tuổi ba mươi. Trải qua cuộc chiến với bao nhiêu cam go, thử thách, với biết bao vết thương trên người. Người vợ hiền cũng là đồng đội đã hy sinh. Thằng con trai mới bốn tuổi cũng chết vì bom. Ngày mọi người hân hoan vui mừng chiến thắng, ngày đất nước hát khúc hoan ca, già cười vui trong nước mắt. Không tìm được hài cốt vợ, già lập một bàn thờ với vật kỷ niệm duy nhất là cái lược sừng đã cũ, ngày cô ấy về thăm rồi bỏ quên. Cô ấy vào nằm trong nghĩa trang với ngôi mộ không hài cốt. Cái võng dù đã tả tơi vì nhiều vết cắt, được người nữ đồng đội đem về đưa tận tay già. Già đã chôn nó thay người, ngày lập mộ.
Thời gian đầu sau giải phóng, già Năm được tín nhiệm giữ chức chủ nhiệm Hợp tác xã mua bán của huyện. Già ngay thẳng, siêng năng, hết lòng với công việc, thương yêu thuộc cấp nhưng già lại thiếu trình độ. Vật vã với công việc buôn bán gần hai năm, già mạnh dạn đề nghị với tổ chức “Tôi không làm tốt được công việc của mình. Ở lại đây e rằng làm hại tới mọi người. Các đồng chí cho tôi được làm một công việc khác phù hợp hơn. Làm gì cũng được, miễn là có đóng góp cho đất nước là được rồi!”. Trước sự thành khẩn của già Năm, tổ chức đành phải bố trí công việc khác: Trưởng phòng “Thương binh Liệt sĩ” huyện. Với công việc mới nầy, già thấy gần gũi với người đã chết, với các đồng chí đã cống hiến một phần sức khỏe và thân thể cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Già thấy vui. Cái bàn tiếp khách ở phòng làm việc của già ít khi vắng khách. Mấy ông bạn đã nghỉ hưu, mấy anh em thương binh thường tới uống trà, trò chuyện. Có lần, mọi người nhắc chuyện vợ con, già cười giả lả: “Bây giờ nói trẻ cũng không còn trẻ nữa. Với lại sức khỏe cũng không còn là bao, lấy người ta rồi cực thân họ, cũng khổ. Thôi thì ở vậy cho rồi. Anh em thương thì tôi cám ơn. Đừng bận tâm chuyện nầy nữa!”. Dần dà, người ta cũng quên chuyện vợ con của người đồng chí hiền lành, tốt bụng. Nghĩa trang liệt sĩ huyện sửa soạn khánh thành, già đề bạt với cấp ủy cho một đồng chí trẻ hơn giữ chức Trưởng phòng. Già nói đồng chí ấy giỏi hơn mình, có thể làm được nhiều việc hơn, tốt hơn. Già chỉ xin được vào ở nghĩa trang, xin cấp một mảnh đất nho nhỏ để trồng trọt. Già Năm chọn cuộc sống yên ả bên các đồng chí đã hy sinh. Nhiều người không tiếc lời ca tụng “Ông già đúng là một người cộng sản chân chính. Chỉ biết nghĩ cho đất nước, cho Đảng, cho dân”. Đồng chí bí thư huyện mua tặng già cái tủ thờ để già đặt lư hương thờ vợ. Già xúc động rơm rớm nước mắt: “Mấy anh đối với tôi tốt quá! Tôi sống ở đây, có đồng chí anh em, có vợ hiền cũng đủ rồi!”. Ngoại trừ mấy ngày lễ, Tết, người ta tới thắp hương, già Năm hơi bận rộn. Còn thường thì, mỗi ngày già Năm ung dung với chung trà (thi thoảng, già cũng uống vài ly rượu), bận rộn với luống rau, vồng cải. Ai biết thì tìm tới mua rau cải bí bầu vừa ngon, vừa rẻ. Tiền bán rau cải già Năm mua nhang đèn để sẵn. Chiều nào già cũng thắp nhang cho từng ngôi mộ. Ngày Tết, ngày giỗ vợ, ngày Thương binh Liệt sĩ, già Năm nấu mâm cơm cúng vái mọi người về ăn. Trong những cuộc họp quan trọng của huyện, già lại được mời tham dự với tư cách cố vấn. Trong mắt mọi người, già luôn là một người đảng viên mẫu mực.
***
Từ ngoài cổng, bỗng có tiếng xe gắn máy. Trong bóng chiều nhập nhoạng, già nghe tiếng đứa con nuôi: “Ba đang làm gì vậy? Con tới thăm ba đây!”. Già thổi tắt ngọn đèn dầu rồi trở về chòi. Người đàn ông ngoài bốn chục tuổi, quần áo bảnh bao, tay xách một gói quà nặng trĩu: “Con đem biếu ba chút quà vừa mua ở Sài Gòn về. Có chai rượu thuốc, ba uống tốt cho gân cốt lắm!”. Y vừa nói vừa để bọc quà xuống bàn. Già Năm từ tốn: “Con tới thăm ba là quý rồi, bày vẽ làm gì cho tốn kém. Để tiền mua quà cho sắp nhỏ còn tốt hơn. Ba sống đơn giản quen rồi, cầu kỳ chi cho mệt”. Già đốt ngọn đèn dầu rồi rót nước ra hai cái ly “Con uống trà nè! Chắc không phải thăm ba thôi! Có chuyện gì thì nói!”. Ánh mắt người đàn ông hấp háy, y bối rối “Chắc ba có nghe chuyện của con. Con tới cũng định nhờ ba giúp con lần nầy. Con biết mấy anh ở Thường vụ huyện ủy ít nhiều cũng nể nang ba. Ba nói giùm con một tiếng cho chuyện được nhẹ hơn, nghe ba!”. Y nói một hơi rồi bưng ly nước uống. Ánh mắt vẫn nhìn già Năm như cầu khẩn. Già Năm vấn thuốc từ từ, như đang suy nghĩ...
 |
|
|
Y là con trai độc nhất của Út Trong, bạn chí thân của mình. Ba nó chết trong một trận càn. Lúc đó, nó vừa được mười ba ngày tuổi. Trước khi chết, Út Trong trăn trối: “Tao chết rồi, mầy săn sóc vợ con tao giùm, mầy nhận làm ba nuôi nó cho tao yên tâm nghe Năm Thành?”. Già Năm chỉ kịp “ừ” một tiếng. Út Trong đã trút hơi thở cuối cùng. Sau trận càn, già đem vợ con Út Trong về để vợ mình tiện bề chăm sóc. Khi vợ con đã không còn, cô bác xóm giềng lại gán ghép “Út Trong không còn, vợ con anh lại chết hết, thôi thì, anh chắp nối với chị Út để tiện bề chăm sóc thằng con nuôi. Như vậy chẳng vẹn vẻ đôi đường sao?”. Trước ý kiến của mọi người (Già cũng biết họ thật lòng chớ không phải gièm pha hay xoi xỉa gì đâu!), già nghiêm chỉnh trả lời “Tôi tuy không được như Quan Công coi chị dâu như mẹ, nhưng vợ bạn phải được lấy lễ mà đãi. Tôi chăm sóc thằng Trường để Út Trong được yên tâm. Còn chị Út thì tôi coi như chị dâu, cô bác anh chị đừng gán ghép nữa!”. Vợ con Út Trong sống trong sự đùm bọc, chở che của Năm Thành và các đồng chí được tám năm thì vợ Út Trong bịnh chết. Thằng Trường từ đó lặn lội theo các chú, các bác, tới năm mười lăm tuổi bắt đầu làm liên lạc...
... Điếu thuốc đã vấn rồi, già Năm cũng le lưỡi liếm mấy lần mà chưa đốt. Hai Trường lẹ làng bật quẹt: “Ba còn cái hộp quẹt díp-bô của ba con hông? Bữa nào con mua một cái mới nhập kiểu đẹp lắm cho ba nghen?”. Già Năm rít một hơi dài, hóp cả hai bên má. Già từ từ nhả khói rồi khẽ khàng: “Làm sao không còn được! Tao chưa rời nó bao giờ, lúc nào cũng ở trong túi áo tao. Chừng nào chết, tao để lại cho mầy”. Hai Trường chớp chớp mắt suy nghĩ “Ông già thương nhớ ba mình như vậy, tình nghĩa như vậy, chắc ổng sẽ giúp mình! Ổng mà lên tiếng thì tội lớn thành nhỏ, tôi nhỏ chắc không thành vấn đề”. Già Năm lại rít mấy hơi nữa, điếu thuốc đã cháy hơn phân nửa. Già bỏ nó xuống đất rồi nghiêm nét mặt nhìn Hai Trường:
- Con đã làm chuyện gì? Phải thành thật nói với ba!
- Dạ! Con chỉ làm sai một số việc trong quản lý hàng xuất nhập khẩu của huyện thông qua Tổng công ty. Chuyện nói lớn thì lớn, nói nhỏ thì nhỏ, tùy theo cách nhìn của lãnh đạo. Ba thương con mà giúp con lần nầy đi ba!...
Già Năm đưa mắt nhìn Hai Trường, ánh mắt buồn và nghiêm. Im lặng. Hai Trường lúng túng gõ nhịp mấy ngón tay lên bàn. Y hồi hộp đợi chờ. Y bỗng tức giận mình sao ngày thường không tới lui thăm viếng, chỉ vì nghe lời vợ mà lạt lẽo với cha nuôi. Bây giờ đối diện với một người nổi tiếng thanh liêm, chánh trực, mình lại mang tội tham ô, làm trái thì có hy vọng được che chở không? Già Năm nhìn người đàn ông đẩy đà sang trọng đang ngồi trước mặt mình mà so sánh, mà nhớ tới thằng con trai mười ba ngày tuổi ngằn ngặt khóc ngày ba nó chết. Rồi cái ngày vợ Út Trong qua đời, thằng Trường cầm tay má nó, nước mắt ràn rụa: “Má ơi! Má đừng chết nghe má!”. Mọi người lúc đó cũng khóc. Nó đã theo già từ khi bắt đầu đi liên lạc. Già đã chỉ dạy nó từng kinh nghiệm dù là nhỏ nhất khi đối diện với hiểm nguy. Già đã từng nhịn đói hai ngày khi kẹt trong hầm, nhường mấy củ khoai cuối cùng cho nó. Nó lớn lên trong mắt già. Nó lập nhiều chiến công như ba nó. Nó chiến đấu, công tác vững vàng tới ngày giải phóng. Nó được hưởng sự đãi ngộ của Đảng, của Nhà nước, được học hành để giữ chức nầy, chức nọ, bây giờ lại làm những điều có tội với nước, với dân.
Già Năm không lớn tiếng, nhưng mỗi câu nói của ông như nhát búa gõ xuống: “Con nhận nhiệm vụ Đảng giao, nhận trọng trách từ các đồng chí đã tin cậy mình mà lại làm vậy. Con sống sung sướng, phung phí tiền của của nhân dân, làm thiệt hại bao nhiêu tiền của của Nhà nước trong lúc đất nước còn nghèo. Không phải ba không nghe bàn tán về con đâu... Một bữa tiệc của con có thể cứu đói bao nhiêu người. Vợ con thì nay đi Sài Gòn, mai đi Đà Lạt, Vũng Tàu, thỏa thuê ăn chơi, mua sắm. Con đã quên rồi những ngày bom đạn. Có đồng chí mình trước khi chết chỉ thèm được ăn một chén cơm với cá kho. Có đồng chí sẵn sàng nhường ngụm nước cuối cùng cho một thương binh rồi tự lấy nước tiểu mình mà uống. Tại sao con sống vững vàng trong gian khó mà lại gục ngã trước những cám dỗ của vật chất xa hoa?...”.
Già Năm đưa tay ôm ngực. Hai Trường điếng hồn. Ông già có vẻ giận quá rồi! Coi mòi lành ít dữ nhiều đây! Y vẫn cố vớt vát:
- Con biết con đã sai rồi, nhưng ai không một lần lầm lỗi! Ba thương con, ba nghĩ tới vong hồn của ba má con mà nói giúp con lần nầy thôi ba! Con hứa sẽ làm lại từ đầu mà!
- Con nói nghe dễ dàng quá! Nếu mỗi người cứ làm sai rồi không dám nhận trách nhiệm thì xã hội nầy thành ra cái giống gì? Làm người, hơn nữa là một người cộng sản - phải dám làm dám chịu. Ba không giúp gì được cho con đâu!
Những lời nói cuối cùng của già Năm rành rọt, dứt khoát. Hai Trường im lặng giây lát rồi từ giã ra về. Nhìn cái bóng liêu xiêu của y qua ánh đèn dầu, già Năm bỗng nghe mắt mũi cay xè.
***
Già Năm ngã bịnh đã mấy ngày nay. Đã ba ngày từ sau phiên tòa xét xử vụ án Công ty Xuất nhập khẩu huyện. Hai Trường lãnh án mười năm. Ngày xét xử, già không có mặt. Dẫu sao, nó cũng lớn lên trong vòng tay già. Dẫu sao nó cũng kêu già bằng ba... Già không đành lòng nhìn nó đứng trước vành móng ngựa để nghe luận tội. Trước ngày Ban Thường vụ Huyện ủy họp có ý kiến già Năm. Già thẳng thắn: “Các đồng chí cứ theo luật mà làm. Ai có tội thì phải chịu xét xử, tôi không có ý kiến gì!”. Nói thì nói vậy, chiều lại, già tới ngồi trước mộ Út Trong thì thầm như đang trần tình với người chết: “Anh đừng trách tôi nghe anh Út. Tôi không thể binh vực nó. Nó là con của anh với tôi nên nó phải là người xứng đáng. Ngồi tù để rồi trở thành người tốt, cũng nên phải không anh? Tôi cũng sắp đi theo anh... Tuổi nầy rồi, còn ham sống gì nữa. Chỉ mong con cháu nó sống tốt hơn!”.
Người giám thị trại giam đưa già Năm vào phòng khách. Anh ân cần: “Bác Năm ngồi đây, cháu đi cho cán bộ trực hay rồi đưa anh Hai tới cho Bác thăm. Già Năm lắc đầu: “Tôi không muốn được biệt đãi đâu. Cứ cho tôi xuống trại thăm phạm nhân giống như mọi người cho đúng”.
Vừa trông thấy già Năm, Hai Trường đã rơm rớm nước mắt: “Ba tới thăm con hả ba? Ba đừng giận con nghe!”. Già Năm cũng nghe mắt cay cay, ra dấu biểu Hai Trường ngồi xuống: “Con khỏe hông? Ba có đem chút đồ ăn ba tự tay làm. Ba nhớ hồi nhỏ, con ưa cá chốt kho tiêu. Ba kho nhiều lắm, con để dành ăn từ từ. Ráng cải tạo tốt rồi cũng được giảm án...”.
Già Năm đón xe ôm về nhà, lòng đã bớt nặng nề căng thẳng. Già bỗng nhớ vợ con mình. Không biết, nếu còn sống thằng Công có nên người hay không? Rồi già tự nhủ “Chắc nó phải giống mình!”.