* HUYỀN NỮ DƯƠNG CHI
Khi nghe bé Hồng hồn nhiên hỏi “Tết năm nay chú Phước có về ở với nhà mình không mẹ?”, chị đau thắt từng đoạn ruột, chỉ lắc đầu. Nhưng bé Hồng không buông tha: “Sao không hở mẹ?”. Chị lặng im, cố nuốt xuống để tiêu hóa cho nhanh một nỗi đau thương đầy tủi thẹn và cô đơn. Thằng Bách gắt giọng trách em: “Mẹ nói không là không, hỏi hoài!”. Chị sợ hai đứa cãi nhau, lên tiếng: “Tết năm nay, chú Phước sẽ không về với mẹ con mình như ba cái Tết trước nữa, vì chắc chú đã đi xa thật xa, xa lắm lắm...”. Nói được những lời ấy rồi, hai hàng nước mắt chị tuôn rơi. Chị không thể nào giấu giếm mãi được. Bé Hồng ngạc nhiên: “Ủa, sao mẹ khóc?”. Chị nuốt nghẹn. Thằng Bách buồn xo, trả lời thay cho mẹ bằng giọng y như của người lớn: “Mẹ buồn, mẹ khóc. Buồn vì mùa xuân sẽ không về với gia đình mình!”. Bé Hồng nhướng mắt lên nhìn anh với vẻ không tin, rồi chờ nghe mẹ xác nhận. Chị gượng gạo, hỏi con trai: “Sao con lại nói mùa xuân sẽ không về với nhà mình?”. Thằng Bách lúng búng: “Tại... con nghe có lần mẹ nói... mẹ nói rằng chú Phước chính là một mùa xuân vui tươi đầm ấm. Nếu chú Phước có về thì có mùa xuân. Phải vậy không mẹ?”. Chị phì cười vì sự sớm khôn lanh của đứa con trai bé bỏng. Nhưng chị muốn chấm dứt câu chuyện ngay lập tức để trốn chạy đau buồn. Chị đứng lên, nói: “Đó là mẹ nói chơi cho vui thôi. Không có chú Phước về đây ăn Tết thì mùa xuân cũng ào vào nhà mình đầy tràn!”. Chị biết mình vừa nói dối. Trái tim chị như vừa ai nắm bóp từng hồi đến đau buốt.
* * *
Chồng chị đã đi biền biệt, mãi mãi sẽ không trở về sau một chuyến ra khơi xa gặp cơn bão lớn dữ dội. Chị ôm hai đứa con thơ dại khóc đến ráo kiệt nguồn nước mắt suốt những đêm ngày vật vã. Khi ấy, thằng Bách mới hai tuổi, và bé Hồng còn đỏ hỏn đang bú mẹ. Không bà con thân thuộc, chị nương nhờ vào sự đùm bọc giúp đỡ của những người hàng xóm nhân hậu ở cái xóm Cù Lao. Chồng mất đi, chị cùng căn nhà nhỏ đơn sơ đều suy sụp một lần: chơ vơ, hụt hẫng. Những lỗ hổng quá lớn bao quanh cuộc đời chị với sự lạnh lùng đến tàn nhẫn, khiến cho đôi lúc chị muốn nhắm mắt xuôi tay trốn chạy đời cay nghiệt... Nhưng tình yêu thương của một người mẹ dành cho con cái, cùng những sự giúp đỡ sẻ chia chân tình của lối xóm, đã giúp cho chị có được nghị lực để mà đứng lên, sống dậy giữa bão tố phong ba. Chị đã từng bước vượt qua quãng đời đầy nước mắt. Từng ngày, từng ngày trôi qua, nỗi đau nguôi dần, chị đã tìm được nguồn vui sống từ những tiếng cười hồn nhiên, những tiếng bập bẹ, những bước tập tễnh của hai đứa con mồ côi cha cho dù chị phải đánh đổi bằng bao ngày đêm lam lũ tối mặt tắt mày với công việc ở bến cá tanh tao, ở chợ chiều hôi hám, chị vẫn chưa một lần than van kể lể hay biểu lộ sự mệt mỏi chán chường. Chị khóc lặng lẽ một mình đến ướt đẫm cả ngực áo vào mỗi đêm ngồi bất động lắng nghe tiếng gió biển hú gào từng hồi ai oán thê lương...
Chị đã thu bóng hình mà âm thầm chịu đựng sống như vậy trong suốt mười năm dài, đến cả chị cũng không ngờ rằng mình đã vượt qua được một chặng đường khủng khiếp đến như vậy. Nhìn lại, căn nhà nhỏ tồi tàn vẫn cứ tồi tàn, bên trong nhà rỗng không vẫn rỗng không, chị biết mình vẫn là người nghèo nhất xóm Cù Lao, nhưng chị vẫn cứ tự hào cười tươi, vẫn cứ vững bước vì chị có được một gia tài vô giá gồm hai đứa con kháu khỉnh và thông minh. Gia tài của chị đó. Chị cứ tiếp tục đầu tư mồ hôi, nước mắt và cả máu huyết vào cái gia tài vô giá ấy cho đến khi sức cùng lực kiệt. Thằng Bách đã tuổi mười hai, bé Hồng đã lên mười, hai đứa đều được đến trường học hành và đều ngoan giỏi đến lạ thường, cứ như trời cao có mắt đã bù đắp cho cuộc đời chịu bao thiệt thòi của chị vậy. Những năm tháng bình lặng trôi đi, mẹ con chị nào có đòi hỏi gì thêm, vậy mà trời cao đất rộng đã run rủi đẩy đưa cho một người đàn ông lạ bước vào nhà chị vào một ngày Tết đến vui tươi...
* * *
Anh tên Phước. Một thợ chụp ảnh dạo. Cuộc đời của anh cũng ba nổi bảy chìm lao đao. Tuổi mới mười tám còn bồng bột đã lấy vợ. Nhà nghèo, vớ được cô vợ còn non choẹt là con nhà giàu cũng có chút tiếng tăm trong giới ảnh hiệu. Vợ anh là con nuôi, ăn chơi sành điệu, thuộc loại “phá gia chi tử”, nên lúc mới quen anh đã cuỗm đi của nghĩa phụ một mớ máy ảnh và vàng vòng để cùng người yêu bay đi du hí. Hết tiền lại mò về, lại hốt một cú khác bay đi cùng mộng trung nhân. Nghĩa phụ chịu hết xiết, phải chấp nhận cho con gái nuôi lấy chồng với hy vọng tổ ấm gia đình sẽ xích đôi chân bay nhảy, và kềm đôi tay vung vít hoang phí của “phá gia chi tử”. Anh được làm rể, được cha vợ chỉ dạy cho nghề chụp ảnh. Hai vợ chồng được cho cả một căn hộ riêng sau ngày thành hôn. Làm vợ làm chồng được hơn một năm, vợ anh sinh được đứa con gái, anh mừng như bắt được kho vàng. Vừa học vừa hành nghề chụp ảnh, anh lại phải vừa chăm nom đứa con cưng, vì vợ anh chẳng hề biết cưng thương con, thậm chí còn xem con như của nợ đáng né tránh. Suốt ngày chưng diện se sua, vợ anh đã mèo mỡ lăng nhăng, nhập băng cặp bồ với những tay chơi đàng điếm. Và rồi, không biết bằng cách nào vợ anh lặng lẽ đem giấy tờ nhà thế chấp tại ngân hàng để vay một khoản tiền to đùng đủ xài thoải mái trong những ngày ngao du sơn thủy với người tình mới... Nhà cửa bất ngờ bị tịch biên, anh ôm con mang về nhà cho mẹ mình cưu mang, để hằng ngày đeo máy ảnh lang thang chụp dạo cho khách du lịch. Người cha vợ có một ki-ốt ảnh ở khách sạn lớn ven bờ biển, thương cho hoàn cảnh chàng rể nên gọi anh đến trông coi, vừa bán phim vừa chụp ảnh cho khách. Công ăn việc làm tưởng như vậy là ổn, không ngờ anh lại gặp tai nạn nghề nghiệp. Chỉ vì non nớt suy nghĩ, anh đã gửi đến báo tỉnh nhà một tấm ảnh có bình thơ phê phán cảnh cờ bạc đỏ đen của đám tài xế trong khuôn viên khách sạn. Tưởng làm vậy là giúp cho khách sạn đẹp hơn, sẽ được khen thưởng, ai dè phản tác dụng, Ban giám đốc khách sạn bị Sở Du lịch khiển trách nặng nề, bèn giận cá chém thớt mắng mỏ cha vợ của anh, đòi cắt hợp đồng với cái ki-ốt ảnh nằm trong sân khách sạn. Cha vợ anh giận run, trút hết tội lỗi qua cho chàng rể, và vậy là anh bị hất văng ra khỏi khách sạn, bị đòi lại chiếc máy ảnh hành nghề. Tay trắng, trở về nhà ôm con nhỏ mà than thân trách phận. Anh bắt đầu giải sầu bằng rượu, say khướt mỗi đêm, lang thang suốt ngày như kẻ thất thần... Một hôm tình cờ gặp lại bạn cũ, anh như kẻ đang vẫy vùng giữa biển khơi lại vớ được chiếc phao cứu sinh thật đúng lúc. Bạn anh vốn là một nhà văn, chuyển sang viết báo, có tên tuổi... Thấy bạn lâm cảnh thương tâm nên đã giúp cho anh vốn liếng: máy ảnh, xe đạp, áo quần, và còn hướng dẫn anh từng bước gia nhập làng báo, cộng tác với trên hai mươi tờ báo từ trung ương đến địa phương bằng những ảnh báo chí, cũng như ảnh nghệ thuật. Cuộc sống của anh ổn định từ đó anh quên bẵng đi người vợ bạc tình đã bỏ xứ đi biền biệt không một tin tức từ bao năm qua... Cứ mỗi dịp Tết, anh xách máy về xóm Cù Lao để chụp ảnh, đó là đất làm ăn của riêng anh, không có cạnh tranh, anh lẳng lặng một mình một cõi hành nghề và thầm cảm ơn trời đã ban tặng đặc ân cho mình...
Anh trở thành người quen thân thiết của xóm Cù Lao. Cứ mỗi dịp Tết, anh về với xóm, được cả xóm niềm nở đón chào như đón một người hàng xóm vừa đi xa về. Xuân tàn Tết hết, anh lại mất tăm biệt dạng, để rồi lại trở về khi mai vàng rộ nở... Định mệnh đã khiến anh dừng chân nghỉ ngơi, dùng bữa cơm trưa thân mật với người góa phụ có hai con nhỏ. Anh gặp chị, như gặp bao khách hàng khác trong xóm Cù Lao, nhưng một sợi dây trói vô hình đã buộc hai cuộc đời của hai con người cô đơn lại với nhau sau những cuộc chuyện trò thăm hỏi và sau những giờ phút lắng nghe nhau thổ lộ tâm sự thầm kín. Từ sự đồng cảm, anh và chị cùng trao cho nhau, tặng cho nhau chính thứ mà mình đang thiếu thốn. Anh đã ở lại với chị, vui cùng hai đứa con riêng của chị, chỉ trong ba ngày ba đêm mỗi dịp Tết hằng năm, rồi anh lặng lẽ rời khỏi cái tổ nhỏ nhoi nghèo hèn với một lời hẹn tái ngộ mông lung... Anh thua chị đến bốn tuổi. Chị thật già héo, xấu xí bên anh. Nhưng những chuyện ấy đã không còn nghĩa lý gì giữa cuộc đời có quá nhiều khổ đau. Chị cần cảm nhận được hạnh phúc, anh cũng cần cảm nhận được hạnh phúc, dù chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi, dù chỉ là phút giây chớp nhoáng như ánh chớp trên nền trời âm u đen đúa. Miễn là cả hai đã trao cho nhau chân tình, không màu mè giả dối, không đãi bôi tuồng kịch, rồi có chia tay cũng để lại cho nhau một hình ảnh thơ mộng như thơ. Đã ba cái Tết anh đến với chị, với hai đứa con của chị như vậy, người trong xóm ai cũng biết chuyện, vậy mà không một ai hỏi han hay động chạm gì đến chuyện giữa chị và anh chàng nhiếp ảnh. Chị biết mọi người đều thông cảm cho hoàn cảnh mẹ góa con côi của chị, xem chuyện của chị và anh là một chuyện vô cùng nhạy cảm, động đến không khéo sẽ làm đổ vỡ, sờ sẫm đến sẽ làm tan biến như khói mây, nên tốt hơn hết là ai nấy cứ làm như người mù, câm, điếc lờ đi như chưa từng có ai tên Phước làm nghề chụp ảnh. Không ai nhắc hỏi đến anh, trừ hai đứa con thơ ngây bé bỏng của chị.
* * *
Chị không dám nói cho hai đứa con mình hay chuyện thật đau lòng đứt ruột mà chị biết một cách tình cờ trong đêm Giáng sinh vừa qua. Đêm ấy, sang nhà hàng xóm xem truyền hình, mục “an toàn giao thông trong tỉnh tuần qua” có đưa tin một tai nạn chết người ngay giữa trung tâm thành phố. Một chiếc xe chở gạch đã tông vào một chiếc xe đạp, khiến cho một người thiệt mạng. Người xấu số là người chở, tên Lê Xương, và người ngồi sau tên Phạm A Phước bị thương nặng, đã được chở đi cấp cứu. Chị choáng váng, thấy trời đất đảo lộn khi nghe đúng tên họ của anh. Loạng choạng về nhà, chị khóc một mình trước bàn thờ, cầu mong là chuyện trùng tên, còn như đúng là anh thì mong anh được tai qua nạn khỏi. Chị không đủ can đảm đi tìm sự thật nơi bệnh viện. Nhà anh, chị cũng không biết ở nơi đâu, vì chị chẳng bao giờ hỏi anh địa chỉ, không ngờ chuyện không màng hỏi ấy đến khi gặp chuyện mới thấy tai hại. Chị theo dõi truyền hình ba đêm liền để nghe ngóng thêm có tin gì về tai nạn giao thông ấy, và đọc được tin ở mục quảng cáo: “Rơi giấy tờ. Trong vụ tai nạn giao thông đêm 24 tháng 12 tại đường Trần Quý Cáp, anh Phạm A Phước là nạn nhân được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện có mang theo một túi xách bằng da si-mi-li, trong có đựng một máy ảnh hiệu Canon, và một số giấy tờ tùy thân, ai nhặt được xin mang lại đưa ông Phạm A Long, bảo vệ trường tiểu học Phước Thạnh, gia đình xin tri ân và hậu tạ”. Chị ngộp thở, bước liêu xiêu về nhà với đầm đìa nước mắt khi đã biết chắc chắn chính là anh gặp tai nạn rồi. Chị chỉ còn biết khóc, ôm nỗi đau trằn trọc bao đêm dài mà không hề nói cho ai hay, cũng không dám tìm đến gặp ông bảo vệ để xác minh sự việc.
Số phận đã an bài, không cho phép chị còn được hưởng những giờ phút ngắn ngủi bên người đàn ông thứ hai bước vào cuộc đời của mình với tình yêu chắp vá gán ghép, nhưng thật hạnh phúc nên thơ. Tết này, chắc là anh sẽ không còn về với xóm Cù Lao, với căn nhà nhỏ tồi tàn của mẹ con chị. Các con chị đã nhắc hỏi đến anh ấy. Chúng đâu biết chị phải cho nước mắt chảy ngược vào tim, và mỗi khi chiều tà chị cứ ra đứng nơi cửa ngóng ra đầu hẻm để mong thấy lại được một hình bóng thân thương của người thợ chụp ảnh dạo... Chắc có lẽ đúng như lời chị đã từng nói, và thằng Bách con chị đã nhắc lại “mùa xuân sẽ không về với gia đình mình”. Cho dù chị đã cố gắng hết sức tạo dựng dệt thêu lên một mùa xuân với đầy đủ mứt bánh, hoa quả, áo quần giầy nón, bánh tét, câu đối đỏ... làm cho bên trong căn nhà sáng sủa tươi vui lên trước mắt hai đứa con, nhưng chị vẫn nhận biết tất cả chỉ là một bức tranh mùa xuân vô hồn vô cảm do một thợ vẽ vụng về sáng tạo trong lúc tâm thần bất ổn.
* * *
Chiều ba mươi Tết. Chị cùng hai con đang ngồi quanh mâm cơm cúng tất niên. Mắt chị vừa được lau khô những giọt lệ sau khi chị thắp nhang đứng trước bàn thờ có linh vị người chồng quá cố và một bức ảnh chân dung khổ nhỏ của anh - người thợ chụp ảnh dạo - đã tặng chị hồi Tết năm ngoái. Hai đứa con chị đâu thấy bức ảnh “chú Phước” thân thương của chúng. Và chị không muốn cho con mình thấy. Chị gắp miếng bánh chưng, ăn mà nghĩ nhớ đến anh, anh thích món này lắm, chị nghẹn ngào cố nuốt... Đúng lúc ấy, khách bước vào nhà. Chị nhướng mắt nhìn lên. Khách đến hai người. Chị trố mắt lên, buông rơi hai chiếc đũa, nuốt nghẹn một cái ực, rồi vẫn ngồi trơ trơ ra đó. Thằng Bách và bé Hồng quay lại nhìn, thấy khách là một người đàn ông đi cùng một cô gái tuổi trăng tròn thật dễ thương. Không hẹn mà hai đứa cùng đứng chồm dậy reo lên:
- Chú Phước... chú Phước... về...
Hai đứa con chị bỏ chén đũa, chạy a lại ôm chầm lấy anh mà mừng vui khôn tả. Chị bần thần đứng dậy, người như bay bổng dạo mây trên trời, bước lại bên anh, nhìn anh đắm đuối, không nói nên lời. Anh cất tiếng chắc nịch:
- Anh dẫn bé Thảo về sống với mẹ con em đây. Chịu không?
Chị trào nước mắt, gật đầu. Thằng Bách hô lên:
- Mùa xuân lại về với nhà mình rồi, mẹ ơi...
Chị ôm lấy anh, nức nở. Mùa xuân đã về...