07/12/2025 - 13:12

Giải pháp ứng dụng công nghệ cao cho sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu 

Theo các chuyên gia, ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất cả nước, tuy nhiên quá trình sản xuất chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), hạn hán, xâm nhập mặn… Phát triển sản xuất bền vững, ứng dụng công nghệ cao thích ứng BĐKH là giải pháp cần triển khai thực hiện trong thời gian tới, vừa góp phần nâng cao giá trị lúa gạo, vừa giúp nông dân duy trì và tăng sản lượng, tăng lợi nhuận trong sản xuất...

Mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ số được triển khai thực hiện tại TP Cần Thơ.

Còn nhiều thách thức

Ông Trần Chí Hùng, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, nhận định: “Trong những năm gần đây, tác động của BĐKH đối với ĐBSCL ngày càng rõ nét và nghiêm trọng từ các hiện tượng như hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn gia tăng, sạt lở diễn biến phức tạp, thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt, thời tiết cực đoan khó dự báo… Những thách thức này đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng lực thích ứng và giảm thiểu phát thải”.

Theo các chuyên gia, BĐKH làm nhiệt độ tăng cao, ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, làm suy giảm năng suất và chất lượng. Mưa thất thường, hạn hán kéo dài gây thiếu nước nghiêm trọng, đặc biệt ở các vùng chuyên canh lúa, cây ăn trái. Nhiệt độ ấm hơn thúc đẩy sự phát triển và lây lan sâu bệnh, dịch hại, cỏ dại, gây khó khăn cho việc kiểm soát. Trong điều kiện ngập úng do lũ hoặc bão, nhiều diện tích cây trồng có thể mất trắng hoặc suy giảm chất lượng. Nước biển dâng và xâm nhập mặn ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng ven biển của ĐBSCL, làm đất trồng không thể canh tác, đặc biệt với cây trồng mẫn cảm với muối...

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, tại ĐBSCL đã từng ghi nhận xâm nhập mặn tăng cao, với nồng độ muối trong các sông chính đạt tới 4g/l, xâm nhập sâu vào nội đồng 50-60km, vượt mức chịu mặn của nhiều loại cây trồng. Năm 2024 là năm xâm nhập mặn cao nhất gần đây ở ĐBSCL, làm trên 29.260ha lúa tại các địa phương bị ảnh hưởng, dẫn đến giảm năng suất và tăng chi phí sản xuất cho nông dân, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh lương thực và thu nhập hộ nông dân.

TS Hoàng Anh Tuấn, Phó trưởng Phòng Khoa học và Đào tạo, Ban Quản lý khu nông nghiệp công nghệ cao TP Hồ Chí Minh, cho biết: “Từ những thách thức này đòi hỏi chúng ta phải hành động mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, đặc biệt phải tìm ra giải pháp mới, phù hợp để thích ứng. Trong bối cảnh đó, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao không chỉ là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu cấp bách, là con đường tất yếu để nền nông nghiệp ĐBSCL và cả nước duy trì tăng trưởng, nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng với điều kiện khí hậu ngày càng khắc nghiệt. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, ở những nơi công nghệ được đưa vào sản xuất từ hệ thống cảm biến môi trường, công nghệ tưới tiết kiệm, trí tuệ nhân tạo trong quản lý mùa vụ, đến công nghệ sinh học trong chọn tạo giống chịu hạn, chịu mặn thì nông nghiệp trở nên hiệu quả hơn, rủi ro giảm đáng kể và môi trường được bảo vệ tốt hơn…”.

Tập trung ứng phó

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Cần Thơ, từ ngày 1-7-2025, sau khi hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính và hợp nhất với tỉnh Hậu Giang và tỉnh Sóc Trăng, TP Cần Thơ có diện tích tự nhiên khoảng 6.360km² và dân số hơn 3,2 triệu người. Đây là cơ hội lớn để thành phố phát huy vai trò trung tâm về kinh tế, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và logistics; đồng thời góp phần chung vào sự phát triển bền vững về lĩnh vực nông nghiệp trong khu vực.

Đặc biệt, với hơn 511.000ha đất sản xuất nông nghiệp, TP Cần Thơ xác định nông nghiệp công nghệ cao là hướng đi chiến lược. Những năm qua, thành phố đã triển khai nhiều mô hình hiệu quả như sản xuất lúa thông minh theo hướng giảm phát thải, ứng dụng đồng bộ kỹ thuật “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”, thực hiện Đề án Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030; ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau màu, cây ăn trái, hệ thống tưới tiết kiệm, nhà màng - nhà lưới, thủy canh, nấm dược liệu, nuôi cấy mô, sản xuất theo VietGAP, Global GAP… Phát triển chăn nuôi an toàn sinh học, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, mô hình chăn nuôi thích ứng hạn - mặn; nuôi trồng thủy sản theo tiêu chuẩn ASC, SQF, BMP… phục vụ xuất khẩu.

Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó chi phí đầu tư công nghệ cao lớn; trình độ tiếp cận công nghệ còn chênh lệch; thị trường cho sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chưa ổn định; chuyển đổi số trong nông nghiệp chưa đồng bộ. Điều đó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn giữa Nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường - hợp tác xã - nông dân.

Việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và mô hình canh tác tiên tiến không chỉ là giải pháp ứng phó trước mắt với BĐKH, mà còn là bước đi cần thiết trong tiến trình hiện đại hóa và phát triển bền vững ngành Nông nghiệp. Tuy nhiên, để việc ứng dụng, chuyển đổi này triển khai và phát huy hiệu quả lâu dài, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp chính quyền, doanh nghiệp, hợp tác xã và người sản xuất.

TS Hoàng Anh Tuấn cho biết, để thực hiện mục tiêu trên, trước hết các địa phương, bộ ngành chức năng cần thiết lập các gói tín dụng xanh và quỹ hỗ trợ lãi suất thấp, thời gian dài cho các dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ thích ứng BĐKH (tưới tiết kiệm, nhà màng thông minh, RAS); áp dụng ưu đãi thuế và giảm phí thuê đất cho các doanh nghiệp và nông hộ thực hiện mô hình canh tác carbon thấp và nông nghiệp tái sinh. Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường carbon, nhất là sớm ban hành các nghị định và hướng dẫn kỹ thuật rõ ràng về MRV (đo lường, báo cáo, thẩm định) để định lượng và chứng nhận lượng carbon được tích trữ trong đất và giảm phát thải, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận thị trường tín chỉ carbon. Thúc đẩy hợp tác công - tư, kêu gọi đầu tư tư nhân vào hạ tầng số nông thôn và các dự án nghiên cứu, chuyển giao công nghệ thích ứng khí hậu.

TS Hoàng Anh Tuấn cho rằng, các địa phương cần phát triển công nghệ và hạ tầng nông nghiệp, tập trung xây dựng nền tảng dữ liệu nông nghiệp, thiết lập nền tảng dữ liệu chung (Big Data) cho ngành Nông nghiệp, tích hợp dữ liệu từ cảm biến, viễn thám và mô hình khí hậu. Nền tảng này cần được quản lý tập trung và dễ dàng truy cập, cung cấp thông tin dự báo sớm và hỗ trợ ra quyết định. Tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và ứng dụng công nghệ gen để tạo ra giống cây trồng, vật nuôi chịu nhiệt, chịu mặn, chịu hạn một cách nhanh chóng; xây dựng các trung tâm trình diễn công nghệ tại vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của BĐKH.

Các địa phương cũng cần tập trung vào các giải pháp thích ứng chi phí thấp nhưng hiệu quả, như hệ thống thu hồi và chứa nước mưa quy mô nhỏ, hầm biogas cải tiến và ứng dụng công nghệ thông tin di động để cung cấp thông tin quản lý cây trồng. Đào tạo kỹ năng số cho nông dân, thực hiện các chương trình tập huấn ngắn hạn, dễ hiểu, sử dụng công cụ trực quan và thực hành để hướng dẫn nông dân sử dụng thành thạo các thiết bị thông minh, ứng dụng dự báo khí hậu và hệ thống truy xuất nguồn gốc; khuyến khích thành lập các hợp tác xã công nghệ cao và nhóm nông dân liên kết để chia sẻ chi phí đầu tư công nghệ, dễ dàng tiếp cận tín dụng và áp dụng đồng bộ các quy trình sản xuất bền vững…

Bài, ảnh: HÀ VĂN

Chia sẻ bài viết