Từ xa xưa, con người đã nhận thức sự nhỏ bé của mình trước thiên nhiên và ghi nhận những hiện tượng bí ẩn của tự nhiên như một sự linh thiêng. Vì vậy, người xưa tiến hành những lễ thức để bày tỏ tôn kính với tự nhiên. Từ thời nguyên thủy, lao động và vui chơi giải trí thường đan xen trong các lễ thức, dần hình thành các lễ hội mang bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, quốc gia. Giá trị văn hóa của lễ hội nói chung và của lễ hội ở vùng ĐBSCL nói riêng hình thành từ đó...
Lễ giỗ nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị ở huyện Phong Điền. Ảnh: DUY KHÔI
Lễ hội ở thời kỳ sơ khai vẫn chưa được tách riêng ra khỏi các hoạt động sống khác của con người, lúc đó còn là lễ hội nguyên hợp, tức là vẫn chưa có sự tách bạch giữa lễ và hội. Các nghi lễ thờ cúng ban đầu chỉ thuần túy để bày tỏ tấm lòng của con người, dần dần được hoàn thiện để mang tính thẩm mỹ. Hoạt động lao động sản xuất thường xuyên của con người ngày càng đòi hỏi phải có thời gian để nghỉ ngơi và thư giãn, nên những yếu tố mang tính thẩm mỹ và các hoạt động vui chơi giải trí cũng ngày càng phát triển để trở thành nhu cầu không thể thiếu trong các hoạt động cộng đồng. Mặt khác, trải qua thời gian dài, cũng có một số yếu tố đã được tách hẳn ra khỏi cái ban đầu và chỉ còn mang tính giải trí thuần túy, như các trò chơi dân gian trong lễ hội. Và đây cũng chính là tiến trình hình thành và phát triển của lễ hội dân gian người Việt(1).
Lễ hội nói chung, lễ hội dân gian người Việt nói riêng đều bắt nguồn từ tín ngưỡng của một cộng đồng (một tôn giáo, một nhân thần hoặc một nhiên thần) nên yếu tố tâm linh trong lễ hội của cộng đồng khá đậm nét. Rõ ràng, điều cột chặt con người trong một cộng đồng không chỉ là quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội, mà còn là quan hệ tinh thần. Sự thiêng liêng trong lễ hội đã dẫn dắt toàn bộ tính chất và hành động hội. Nó được biểu hiện trong lễ thức, nghi thức, các hoạt động văn hóa trong lễ hội, nhằm tôn vinh những gì đẹp đẽ và lương thiện. Người ta coi việc đi hội, trẩy hội là sự nhập cuộc một cách thành kính trước các giá trị thiêng liêng của đất nước và của dân tộc(2).
Lễ hội Kỳ yên là lễ hội truyền thống lâu đời, có hầu khắp các địa phương ở Nam Bộ. Trong ảnh là buổi hát bội trong dịp cúng đình. Ảnh: DUY KHÔI
Lễ hội cho dù thuộc loại hình nào đi nữa thì bao giờ cũng là để tôn vinh nhân vật được phụng thờ. Nhân vật được phụng thờ này có thể là nhiên thần, nhân thần hay đơn giản hơn đó chỉ là vị thần trong ý niệm. Dù thuộc loại hình nào thì nhân vật được phụng thờ phải có công với làng xã, quê hương đất nước. Chính vì những nhân vật được phụng thờ có công hộ quốc ti dân hoặc là những nhân vật lịch sử có công trạng thật sự nên người dân mới xây đình, dựng miếu, lập chùa để phụng thờ, tạ ơn. Và lễ hội dân gian người Việt bao giờ cũng mang ý nghĩa tôn kính, biết ơn đối với nhân vật mà mình phụng thờ.
Tiến trình lễ hội này theo chân của người Việt trên bước đường Nam tiến. Ban đầu, khi đặt chân đến vùng đất này, họ không khỏi lo sợ trước cảnh tượng hoang vắng, trời nước mênh mông, rừng rậm hoang vu, thú dữ rình rập… hoàn cảnh sống khác biệt nơi quê nhà. Tất cả đã làm cho họ có ý niệm về thần chi phối. Vùng đất mới với điều kiện tự nhiên khác xa quê cha đất tổ nên những tín ngưỡng và lễ hội được mang theo cũng không phù hợp. Vì vậy, một số nội dung tín ngưỡng và lễ hội ban đầu đã được thay đổi. Nhưng dù có thay đổi thì những giá trị văn hóa mang tính cốt lõi trong hệ thống lễ hội dân gian người Việt vẫn luôn được bảo tồn. Đó là lòng tôn kính, biết ơn các nhân vật phụng thờ trong lễ hội và sự trở về nguồn cội của con người mỗi khi lễ hội diễn ra.
Những giá trị văn hóa của lễ hội được thực hành và thể hiện rõ trong đời sống dân gian của cư dân vùng Tây Nam Bộ. Đặt chân đến miền đất xa xôi, trước những khó khăn về thiên tai địch họa của buổi ban đầu khẩn hoang, người Việt đã cầu viện đến Thần, Phật... mong được phù hộ để có cuộc sống bình an. Cuộc sống dần ổn định, cơ nghiệp phát triển, họ cho rằng đó là kết quả từ nỗ lực của bản thân và sự che chở, cứu giúp của các vị Thành Hoàng, Bà Chúa Xứ, Mẹ Nam Hải... Để tỏ lòng tôn kính và biết ơn, họ đã lập các điểm thờ tự, ngày đêm hương khói, tổ chức lễ hội hằng năm. Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, xuất hiện những vị anh hùng dân tộc: Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Văn Tồn... Để tri ân, nhân dân đã lập đền thờ, hoặc đưa các vị anh hùng vào các điểm thờ tự đã có. Lễ hội tưởng nhớ các anh hùng lịch sử được tổ chức hằng năm ở vùng Tây Nam Bộ là minh chứng phương danh các vị mãi sống trong lòng dân tộc.
Như vậy, lễ hội dân gian người Việt vùng Tây Nam Bộ hàm chứa lòng tôn kính và biết ơn đối với nhân vật phụng thờ - những nhân vật đã có công đem lại cuộc sống an lành, độc lập tự do cho quê hương xứ sở. Đó cũng chính là đạo lý "uống nước nhớ nguồn" ngàn đời của dân tộc. Bên cạnh đó, lễ hội dân gian người Việt vùng Tây Nam Bộ còn mang bản chất trở về cội nguồn của dân tộc. Đó là cội nguồn tự nhiên mà con người là một bộ phận; cội nguồn của cộng đồng; cội nguồn với những con người đã sáng tạo ra văn hóa và lịch sử...
Trong đời sống hiện đại với những bước tiến vượt bậc về khoa học kỹ thuật, con người càng có nhu cầu tìm lại nguồn cội của mình để khẳng định nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hóa. Nền văn hóa cổ truyền mà trong đó lễ hội là một hiện tượng tiêu biểu, có thể đáp ứng những nhu cầu ấy. Thế nên, lễ hội truyền thống vẫn được xem trọng và thu hút ngày càng nhiều người(3).
Trần Phỏng Diều
--------------------------------
(1) Nguyễn Quang Lê (2014), Bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt, NXB Khoa học Xã hội, tr.24-26.
(2) Trương Thìn (1993), "Lễ hội và du lịch ở Việt Nam", in trong cuốn "Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại", Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng (chủ biên), NXB Khoa học Xã hội, tr.208.
(3) Ngô Đức Thịnh (1993), "Những giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền và nhu cầu của xã hội hiện nay", trong cuốn "Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại" (Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng (chủ biên), NXB Khoa học Xã hội, tr.286.