13/08/2025 - 20:49

Đột phá công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản 

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra, áp lực của biến đổi khí hậu, yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường, việc ứng dụng công nghệ số để tối ưu hóa chuỗi giá trị nông nghiệp nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng không còn là lựa chọn mà trở thành hướng đi tất yếu. Các công nghệ như IoT, AI, Big data, Blockchain, truy xuất nguồn gốc điện tử… đang giúp người dân và doanh nghiệp kiểm soát tốt hơn các yếu tố đầu vào, giảm thiểu rủi ro và kết nối hiệu quả với thị trường.

Nắm bắt xu thế

PGS.TS Huỳnh Trường Giang, Phó Hiệu trưởng Trường Thủy sản, Đại học Cần Thơ, cho biết: Ứng dụng công nghệ số là xu thế phát triển của ngành Nông nghiệp nói chung và thủy sản nói riêng. Công nghệ này không chỉ giúp doanh nghiệp, hộ nuôi nâng cao hiệu quả sản xuất (tiết kiệm thời gian, giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động…) mà còn cải thiện chất lượng, tạo niềm tin cho người tiêu dùng thông qua truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Công nghệ số ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản còn giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, hướng đến phát triển bền vững.

Nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao tại Tập đoàn Việt - Úc.

Một số công nghệ số được nghiên cứu và ứng dụng trong thực tiễn có thể kể đến như sử dụng robot để vệ sinh ao/lồng, quan sát lưới lồng; loại bỏ xác cá bệnh, chết; tiêm vaccine (cá được tiêm tự động thay vì con người); đánh giá sức khỏe cá, cá thất thoát. Hay ứng dụng Drone trong quan sát trại cá, môi trường nước; kiểm tra sức khỏe; phát hiện cá chết; thu thập dữ liệu kết hợp với AI, điện toán đám mây để xử lý thông tin. Ngoài ra, một số ứng dụng công nghệ số để nghiên cứu hoạt động bơi lội của cá; viễn thám để quan sát hoạt động trồng rong biển; AI trong quản lý, sử dụng thức ăn cá/tôm nhằm tổng hợp dữ liệu, giúp quyết định đúng đắn, giảm bớt lao động/nhân lực, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn; quản lý chất lượng nước; thu hoạch và chế biến. Ứng dụng IoT để quan trắc môi trường và ghi nhận dữ liệu; tự động hóa trong vận hành trại nuôi (quản lý chất lượng nước, phân cỡ, thu hoạch, cho ăn…); chẩn đoán, dự báo sức khỏe loài nuôi, nhận dạng cá thể.

Anh Tạ Phước Guôl, ở xã Đông Hải, tỉnh Cà Mau, cho biết: “Gia đình tôi có 30ha nuôi tôm. Tôi bắt đầu nuôi tôm từ năm 2005, nhưng đến năm 2016 chuyển sang nuôi tôm công nghệ cao theo hướng siêu thâm canh. Hiện nay, các ao nuôi được ứng dụng cảm biến để theo dõi độ pH, chất lượng nước; máy cho ăn tự động… nên không chỉ giảm nhân công lao động mà năng suất cũng cải thiện. Trước đây, nuôi theo cách truyền thống, sản lượng thu hoạch chỉ đạt 500kg-1 tấn/1.000m2 thì nay nuôi theo hướng công nghệ cao sản lượng tăng 3-4 lần”. Theo anh Tạ Phước Guôl, mặc dù có nhiều cải tiến nhưng tiền điện tiêu thụ mỗi tháng vẫn cao nên anh đang có kế hoạch ứng dụng công nghệ số trong quản lý, đầu tư điện năng lượng mặt trời tiết giảm lượng điện tiêu thụ.

Nỗ lực nhân rộng

Mặc dù đem lại những ưu điểm vượt trội, tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản cũng gặp một vài thách thức: nhiều công nghệ còn ở mức độ nghiên cứu, chưa được thương mại hóa; quy mô nuôi vẫn còn nhỏ lẻ khó ứng dụng công nghệ số trên diện rộng; chi phí và giá thành của một số công nghệ số còn khá cao, các hộ nuôi ở quy mô vừa hoặc nhỏ rất khó tiếp cận...

PGS.TS Huỳnh Trường Giang cho rằng, ứng dụng công nghệ số trong ngành thủy sản phải đảm bảo về mặt kỹ thuật, môi trường, kinh tế - xã hội. Về mặt kỹ thuật, người nuôi phải liên tục cải tiến quy trình kỹ thuật nuôi, ứng dụng công nghệ cao như công nghệ tuần hoàn, Biofloc, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin… vào quá trình nuôi trồng thủy sản để tăng năng suất, lợi nhuận và giảm tác động đối với môi trường. Ở góc độ môi trường, doanh nghiệp, hộ nuôi phải sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm phát thải, bảo tồn nguồn lợi, đa dạng sinh học và sinh cảnh. Về mặt kinh tế - xã hội, phải có thể chế, chính sách, các tiêu chuẩn kỹ thuật, trách nhiệm và an sinh động vật liên quan đến các tiêu chuẩn và chứng nhận trong thủy sản.

Theo TS Mai Thi, Giám đốc Công ty TNHH Công nghệ sinh học Mai Thi, công ty có nhiều năm gắn bó, cung cấp chế phẩm sinh học xử lý môi trường, ao nuôi thủy sản cho bà con vùng đệm U Minh Thượng, U Minh Hạ. Mô hình tôm - lúa của bà con nơi đây rất có tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, để mang lại lợi nhuận cao hơn cho bà con thì việc ứng dụng công nghệ số phải được triển khai kịp thời.

“Hiện nay, tôm trong mô hình sau khi thả nuôi tỷ lệ sống chỉ 10-15% do không đủ oxy. Đối với vụ lúa, bà con hiện trồng thuận thiên, với các giống Một Bụi Đỏ, ST25… nhưng gặp khó trong bảo quản sau thu hoạch làm ảnh hưởng đến độ ẩm, mùi thơm và chất lượng gạo. Nếu bà con ứng dụng công nghệ số để quản lý, cung cấp oxy trong nuôi tôm thì tỷ lệ tôm nuôi sống sẽ tăng gấp đôi. Đối với lúa, ứng dụng công nghệ sấy thông minh sẽ đảm bảo được độ thơm ngon của gạo thì lợi nhuận thu về sẽ tăng lên rất nhiều” - TS Mai Thi phân tích.

Xu hướng nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL hiện nay theo hướng thương mại, tập trung vào nuôi đơn loài, thâm canh, siêu thâm canh. Trong đó, ĐBSCL mạnh về cá tra, tôm nước lợ (tôm sú và tôm thẻ chân trắng), nuôi lồng bè (tập trung ở nhóm cá có vảy), nuôi biển cũng được chú trọng phát triển trong những năm gần đây. Đây là cơ hội ứng dụng các công nghệ số toàn diện, tiến tới nuôi trồng thủy sản hiệu quả, bền vững.

Bài, ảnh: MỸ THANH

Chia sẻ bài viết