Cứ ngày đám giỗ bà Út là ông Tư Vọng lại kể chuyện xưa. Ông kể đã bao lần rồi, có người nghe đã hàng chục bận, vẫn hay. Nghe chuyện chăm chú, bình luận thật hăng rồi pha trò cũng vô cùng rôm rả. Cứ như họ vẫn đang là những người lính trẻ ngày nào.
* * *
“Trận đánh ác liệt đó đã đi vào lịch sử. Địa danh kinh Rạch Ruộng vang lừng từ ngày 4-12-1967. Đúng vào ngày này 43 năm về trước, chúng tôi vui vì đã diệt hơn bốn chục tàu chiến Mỹ. Chúng tôi buồn vì anh em đồng đội và 13 cô gái tiểu đội giao liên hỏa tốc đã ra đi mãi mãi. Trong tiểu đội nữ giao liên ấy có người yêu của tôi. Nếu Ngọc Lan không hy sinh, đơn vị đã làm đám tuyên bố cho chúng tôi rồi...”. Bao giờ ông Tư cũng mở đầu câu chuyện như vậy.
...Gần trưa. Cánh đồng bên kinh Nguyễn Văn Tiếp vắng vẻ; lâu lâu mới một, hai bóng người. Đàn chim sẻ mải mê kiếm mồi trên những ruộng lúa vừa cắt xong. Tiếng con đầm già è è trên trời. Thỉnh thoảng bầy chim nháo nhác vì tiếng nổ của đạn tụi pháo binh chi khu bắn hú họa. Tiểu đội trưởng Vọng và một tân binh đang đi cải thiện. Tư Vọng nổi tiếng sát cá. Anh xách giỏ đi, chỉ lát sau cả tiểu đội ăn không hết. Cá đã nhiều, hai “thầy trò” ráng bắt thêm ít nữa về cho anh em bên Cơ yếu. Nghề Cơ yếu ôm cái máy 24/24 giờ, đâu có thời gian đi cải thiện. Vọng vừa bỏ con cá lóc vào cái giỏ đeo bên hông, một tiếng quát vang lên đanh gọn:
- Đứng yên? Các anh là ai mà vô đồng này bắt cá?
Trước mặt Tư Vọng là một cô gái mặt còn non choẹt (vậy mà giọng nghe đanh quá). Bộ bà ba ôm gọn thân hình thon thả. Chiếc mũ tai bèo ôm ấp mái tóc xõa ngang vai. Khuôn mặt trắng hồng lấm tấm mồ hôi. Tư Vọng cố sửa giọng thật ngọt ngào:
- Chào em. Chúng tôi là lính tiểu đoàn của tỉnh. Đóng quân gần đây. Còn em, đơn vị nào?
Tư Vọng suýt phì cười vì giọng gay gắt phát ra từ đôi môi rất đẹp:
- Yêu cầu đồng chí phát ngôn nghiêm chỉnh. Gọi tui là đồng chí. Không có anh em ở đây... Tại sao các đồng chí đi cải thiện sát vùng địch mà không đem theo vũ khí?
Tư Vọng cũng làm bộ nghiêm mặt:
- Báo cáo đồng chí. Đem theo vũ khí vướng, khó bắt cá. Còn đồng chí đơn vị nào? Đi đâu mà cũng không đem theo vũ khí?
- Tui thuộc tiểu đội hỏa tốc. Đi tài liệu, đang trên đường về. Tiểu đội không được trang bị súng, chỉ lựu đạn thôi. Gặp địch, sẵn sàng cưa đôi. Quyết không để tài liệu lọt vào tay địch.
Cô nói, tay vỗ vỗ vào trái lựu đạn giắt sau lưng, Tư Vọng cố giấu nụ cười:
- Vậy chúng ta là đồng chí. Tiểu đoàn chúng tui ở kế bên mấy cô hỏa tốc chớ đâu. Bây giờ chúng mình giới thiệu tên tuổi để phân ngôi thứ nha. Tui lớn xin giới thiệu trước. Tui tên Vọng, thứ Tư, 18 tuổi, bảy tháng...
-Chưa biết tuổi người ta mà: tui lớn, giới thiệu trước! Xin lỗi đồng chí. Tui 19 tuổi. Đồng chí phải gọi tui là chị Út Ngọc Lan. Quê tui Hồng Ngự...
- A đồng hương. Tui thiệt may mắn có đồng hương xinh đẹp. Ngày mai tui đến thăm em đồng hương nha.
- Phải nói là đến thăm chị đồng hương. Mà... Chị Hai Khuấy tiểu đội trưởng của tui nghiêm lắm à nghen. Với lại ngày mai tui đi công tác rồi. Ít hôm mới về...
* * *
Ông Ba Vĩnh ngắt lời:
- Cái buổi ban đầu gặp gỡ đầy mùi súng đạn mà cũng nên thơ quá hén. Chàng bắt cá đánh độc cái quần tà lỏn, mình mẩy sình bùn bê bết. Còn cô em xinh đẹp, chững chạc trong bộ đồ Việt Cộng. Cứ như Tiên Dung bắt gặp Chử Đồng Tử dzậy.
- Hóa ra cô em hơn chàng chỉ một tháng tuổi. Thằng Tư Vọng nó khôn mà hổng ngoan. Chưa gì giành nói: “Tui lớn nói trước...”. Nghe vậy tao còn thấy ghét nữa là Ngọc Lan. Sau này Ngọc Lan yêu mày, có công tao trong đó nhiều lắm nghen. Ông Bảy Quang, thương binh, nguyên Chính trị viên tiểu đoàn dí dỏm buông một câu.
Ông Tư Vọng mỉm cười thích thú. Nâng ly rượu đế “trăm phần trăm” với cả bàn, rồi ông cất giọng hùng hồn:
- Cám ơn “ông mai” Bảy Quang. Cám ơn xạ thủ trung liên Ba Vĩnh, người luôn giúp tui ghi bàn thắng. Thắng cả trong chiến đấu, thắng cả trong tình yêu. Cám ơn tất cả anh em trong tiểu đoàn. Cám ơn chị Hai Khuấy và cả tiểu đội nữ giao liên hỏa tốc. Nhớ tới 13 cô gái quê mình đã anh dũng hy sinh, tui tự hào nhưng cũng rất phân vân. Nói điều này, anh Bảy, Ba Vĩnh và tất cả anh em mình đây có đồng ý với tui không? Trong chiến tranh, cả đất nước đều hy sinh mất mát. Người hy sinh đã xong nợ nước. Người còn sống đây, như chúng ta nè, vẫn còn nợ nhiều với đồng đội đã hy sinh. Hôm rồi tôi cùng đoàn Cựu Chiến binh tỉnh ra viếng Nghĩa trang Trường Sơn. Sau đó đến ngã ba Đồng Lộc viếng Tượng đài 10 cô gái anh hùng. Lâng lâng niềm tự hào 10 cô gái Thanh niên xung phong, lòng tui lại nhớ về 13 cô gái tiểu đội giao liên hỏa tốc. 13 cô gái Đồng Tháp Mười đã chiến đấu và dũng cảm hy sinh... Tôi tin một ngày không xa sẽ có tượng đài chiến thắng Rạch Ruộng. Sẽ có tượng đài chiến công 13 cô gái quê hương...
Không khí trầm xuống. Những người đã sống một thời bom đạn lại rưng rưng nhớ về quá khứ oai hùng. Mỗi người một mẩu chuyện, một kỷ niệm về đồng đội. Một khoảnh khắc mình đã thoát chết; hoặc một tình huống bị địch bao vây, “ngàn cân treo sợi tóc”, bỗng thế cờ lật ngược, trở thành người chiến thắng... Rượu lại rót, lại “trăm phần trăm”. Rượu cay nồng hay đôi mắt cay, Bảy Quang rút khăn lau vội hai dòng nước mắt.
* * *
...Ngày 4 tháng 12 năm 1967, chúng ta đã cầm chân hàng trăm tàu chiến với hàng ngàn quân của bốn sư đoàn liên quân Mỹ- ngụy. Chúng không thể tiến được vào Đồng Tháp Mười như ý đồ của chúng. Sang ngày 5, vũ khí, đạn dược của ta đã cạn. Tuy vậy, toàn thể cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn vẫn ngoan cường chiến đấu. Tổ hỏa lực của Tư Vọng hai đồng chí là Sáu Tấn và Chín Cò hy sinh, Tư Vọng bị thương rất nặng. Bên tiểu đội nữ hỏa tốc không được trang bị súng nên chỉ tự vệ bằng lựu đạn. Chị em cũng thương vong nhiều. Nghe tin Tư Vọng bị thương nặng, Ngọc Lan xin phép tiểu đội trưởng Khuấy đưa gấp thương binh về trạm xá tiền tiêu. Ba bên bốn bề đều có địch. Sẽ đưa thương binh đi đường nào. Ngọc Lan đề nghị chuyển thương binh bằng xuồng. Sẽ đi tắt trong mương liếp, lách địch mà đi. Tình trạng của Tư Vọng rất nặng, không cứu chữa kịp thời khó lòng sống nổi.
Lúc bình thường Ngọc Lan dịu dàng, có phần hơi yếu đuối, nhưng lúc này Ngọc Lan như có thêm sức mạnh. Cô ẵm Tư Vọng đặt ngay ngắn giữa xuồng. Chiếc xuồng ba lá, phía sau có gắn máy đuôi tôm. Cô đẩy xuồng len lỏi theo những con mương khét lẹt mùi thuốc súng. Đoạn có nước còn đỡ; khúc cạn cô phải đẩy xuồng mệt lử. Vừa đi Ngọc Lan vừa quan sát địch. Tư Vọng vẫn mê man. Thỉnh thoảng lại ú ớ kêu gì đó. Ngọc Lan dừng lại lấy nước cho Tư Vọng. Cô băng bó lại vết thương, lấy khăn rằn của mình lau mồ hôi, lau máu cho Tư Vọng. Sau mấy tiếng đồng hồ, Ngọc Lan đã đưa Tư Vọng đến được rạch Hai Lầu. Từ đây chạy máy chỉ không đầy 20 phút là đến trạm xá. Nhưng địch dày đặc thế này. Trời cũng sắp tối. “Anh có bề gì làm sao Lan sống đây. Anh phải sống. Sống để tiếp tục chiến đấu. Quê hương mình quân thù còn dày xéo. Anh Tư ơi. Từ ngày chúng mình quen rồi yêu nhau, đã ba năm rồi. Ba năm, anh nắm tay em. Vậy thôi. Chúng mình đã báo cáo tổ chức rồi mà. Anh Bảy Quang, chị Hai Khuấy và tất cả đồng đội đều ủng hộ cho đôi ta...”.
...
- Ê, xuồng kia ghé vô, không ghé bắn bỏ!
Gặp lính rồi. Ngọc Lan từ từ giảm ga... Bất ngờ cô tung trái lựu đạn về phía địch rồi xiết ga. Xuồng vùn vụt lao về phía trước. Sau tiếng nổ, những tiếng la hét, chửi thề loạn xạ. Những loạt đạn AR.15 chát chúa. Ngọc Lan đã trúng đạn. Dòng máu đỏ chảy trên ngực, chảy tràn xuống người Tư Vọng... Khi chiếc xuồng đến được trạm xá, Ngọc Lan gục xuống. Mọi người đều nói: “Tư Vọng sống được chính nhờ dòng máu nóng của Ngọc Lan sưởi ấm!”. Máu Ngọc Lan đã hòa quyện máu Tư Vọng, để một thương binh tiếp tục chiến đấu.
Dù sau đó bị thương thêm vài lần nữa, Tư Vọng vẫn cùng đồng đội chiến đấu đến ngày Bắc Nam sum họp. Tiếc thương Ngọc Lan, Tư Vọng quyết không cưới vợ. Phục viên, Tư Vọng trang trọng đặt bàn thờ giữa nhà thờ cúng Ngọc Lan. Đất nước hòa bình, Tư Vọng quyết làm giàu và anh đã giàu. Anh học hỏi khoa học kỹ thuật như ngày nào học chiến thuật để đánh thắng kẻ thù. Anh trồng lúa, nuôi tôm... Qua bao gian nan, thất bại bước đầu, giờ đây Tư Vọng là một cựu chiến binh thành đạt.
Tin vui 3 đứa con của Tư Vọng cùng thi đậu đại học bay khắp xã. Thì ra mười mấy năm trước anh xin phép được nhận ba cháu mồ côi, con của đồng đội về nuôi. Anh như thêm nghị lực, anh lao động hăng hơn. Dù kinh tế đã khá giả, Tư Vọng vẫn sống giản dị, thanh bạch như ngày xưa là lính. Anh trở thành tấm gương sống là điểm tựa cho ba đứa con. Cả ba cháu đều cần mẫn, siêng năng, ham học và rất yêu đồng ruộng. Yêu đồng ruộng nên chúng bàn nhau thi vào Đại học Nông nghiệp. Trước lúc các con nộp hồ sơ, Tư Vọng hỏi: “Vì sao các con không chọn những ngành, nghề để sau này ra làm việc giữa thành phố? Ở thành phố các con có cuộc sống tiện nghi đầy đủ. Sao các con lại thích chân lấm tay bùn?”. Các cháu đều trả lời: “Ba má con đã hy sinh để giữ đất này. Má Ngọc Lan cũng hy sinh. Ba Tư Vọng cũng đã gởi vào đất một phần thân thể. Đất quê hương phù sa màu mỡ vì thấm máu bao người. Con yêu quê hương, yêu đồng ruộng. Yêu từng hạt phù sa vì trong mỗi hạt phù sa có máu thịt cha, ông. Mai này trở thành một kỹ sư Nông nghiệp, con càng gắn bó với ruộng đồng. Gắn bó ruộng đồng con như được gần với ba với má nhiều hơn?”. Nghe chúng trả lời, Tư Vọng mát ruột, mát gan mà bỗng dưng lại khóc.
* * *
Giờ đây 3 đứa con của Tư Vọng đều là kỹ sư Nông nghiệp. Mỗi khi chúng về thăm, Tư Vọng lại nhớ ngày ba đứa nó lên đường nhập học. Hôm đó, ba đứa đốt nhang lạy má Ngọc Lan, hứa mãi mãi noi gương mẹ, mãi mãi sống đẹp như ba đã và đang sống. Sẽ làm niềm vui cho hương hồn ba má nơi chín suối... Tư Vọng cũng đốt 3 nén nhang cho vợ: “Ngọc Lan ơi! Tượng đài chiến thắng, tượng đài hy sinh của em, của hàng ngàn đồng đội chính là những cánh đồng vàng, những cánh đồng phù sa màu mỡ quê hương. Các con, cháu sẽ chăm sóc tượng đài. Sẽ chỉnh trang tượng đài để xứng với máu xương của bao thế hệ đã ngã xuống giữ đất này. Em ơi, dòng máu nóng của em vẫn chảy. Mãi mãi chảy trong anh. Chảy trong huyết quản các con...”.