TRẦN QUỐC CƯỠNG
Không biết tự bao giờ hắn trở thành kẻ làm môi giới cho các gánh hát bội không chuyên. Gọi hắn là kẻ môi giới không hẳn đúng, đại loại hắn đứng ra lãnh lấy trách nhiệm đi liên lạc, góp nhặt từng diễn viên ở tận các xó xỉnh nào đó, rổ rá ráp lại thành một gánh hát có đầu, có đuôi hẳn hoi để phục vụ cho những dịp lễ lộc ở quê.
Có lần tôi cặp vai hắn, cười tưng tửng:
-Mày đúng là Mạnh Thường Quân của giới mộ điệu tuồng cổ.
Hắn bĩu môi, đưa tay gãi dái tai sần sật:
- Tui là mựng thường quanh thì có chứ Mạnh Thường Quân cái cóc gì. Mấy cha trưởng thôn dấm dúi mấy chục ngàn bạc vào túi tui: “Biết chú mày có tài ngoại giao, hay đi lại nhiều nơi, cố gắng kéo cho được đám đào kép kha khá về diễn cho bà con coi chơi”, nào là: “Thằng Tải - cháu quen biết nhiều đào hay, kép giỏi, chỉ cần cháu hô lên một tiếng là họ ào về cái một”. Vậy là gánh hát nào hát hay không ai khen Tải. Còn gánh hát hát dở thì cứ nhè vào tai Tải mà trút, có điên không chớ?
Nghe hắn tố khổ, tôi phì cười, giả lả:
- Con dâu có công - mẹ chồng chẳng phụ, rồi xóm làng cũng nhận ra không thể thiếu mày trong những lần lễ hội, được chưa?
Nghe những lời ruột gan của tôi, hắn đổi giận làm vui:
- Ừa, nói vậy có dễ nghe không. Tui nói thật, cái làng mình mà thiếu đi tiếng hát bội, thiếu đi tiếng trống thùng thình thì buồn thúi ruột.
Hắn kể cho tôi nghe năm hắn mới học lớp bốn, lớp năm gì đấy đã mê cái ông Tiết Nhơn Quý cầm phương thiên họa kích đánh gã Cáp Tô Văn chạy trối chết. Đêm nằm mơ, hắn xưng là Quan Công kêu Uất Trì Bửu Lâm đòi lại cái đầu. Mẹ hắn nằm một bên hoảng hồn bật dậy thắp nhang lạy rần rật bốn phương tám hướng xin thánh thần đừng bắt hồn thằng Tải. Hắn lớn lên dạn như đất cục, đánh lộn một cây, mỗi ngày ít nhất là có một người hàng xóm đến mắng vốn với mẹ hắn về chuyện hắn đấm đá con người ta. Hắn mê kiếm-kích-đao-thương và các thần tượng: Võ Văn Thành Đô, Hạng Võ, Trương Phi, Nhạc Phi, La Thành, Địch Thanh... đến nỗi hắn tìm bút lông vẽ lên giấy bóng chân dung các vị anh hùng ở tận bên Tàu ngồi trên ngựa giao đấu với nhau theo trí tưởng tượng. Sau đó hắn lấy một mảnh vải trắng vuông vức cột trên hai thanh tre, căng màn dựng đứng, rồi dùng chiếc đèn pin nhỏ xíu chiếu qua tờ giấy bóng, phóng lên màn ảnh. Trên màn ảnh các vị tướng soái đánh nhau chung chiêng theo bàn tay lèo lái của hắn trông ngồ ngộ. Bọn trẻ hàng xóm ào đến xem chiếu bóng đông nghịt, hò reo inh ỏi.
***
Nhà của Lưu Kim Đính nằm sâu trong con hẻm lẹp nhẹp nước thải đen ngòm túa ra từ khu chung cư. Từ khi nàng nên nghĩa phu thê với Cao Quân Bảo, nàng an phận thủ thường cùng chồng thồ cá đi bán ở các chợ vùng cao. Thời may, hắn đến nhà đúng lúc vợ chồng họ Cao vừa chạy chợ về. Hắn reo lên như một đứa trẻ:
-A! Anh biết chú thím thế nào cũng ngứa tai, nhảy mũi mà về sớm, bởi trên đường đến đây anh luôn miệng nhắc Cao Quân Bảo và Lưu Kim Đính-đôi trai tài gái sắc. Ơ kìa! dạo này trông chàng họ Cao hơi ốm cơ đấy.
Chủ nhà cười ha hả:
- Cao Quân Bảo bây giờ “bở” lắm, không thể đi Thọ Châu cứu giá được đâu ông anh ơi! Đừng có mà làm sứ giả đi thuyết khách. Vào nhà uống miếng nước cái đã.
Hắn cười híp mắt, độp lại:
- Làm trai đầu đội trời chân đạp đất, thấy cha đang bị vây khốn trong thành mà không lo đi cứu giá thì bất hiếu quá! - Hắn chợt hạ giọng:
-Này, này! Biết tỏng chuyện anh đến đây rồi hở? Nghe tin vịt từ đâu thế?
Anh chàng họ Cao dắt chiếc Honda 67 bụi đất bám mốc thếch như con trâu già vào sân, cười khụt khịt:
- Hôm qua thằng Hiền sang rủ rê một hai đi hát làng với nó một chuyến. Em cũng thấy ngứa nghề, nhưng con vợ em, nó cứ bàn lui.
Hắn thả giọng trầm khích tướng:
- Chú mày làm thống soái gia đình mà không quyết đoán tí nào. Buôn bán chi cho lắm vào, cũng phải có những giờ phút thảnh thơi dành cho nghệ thuật chớ. Anh biết chắc năm nay bà con ngư dân trúng lớn vụ cá. Họ chi mát tay lắm, hát những mười đêm cơ, tha hồ mà hốt bạc, cơ hội này bỏ cuộc thì phí đời lắm chú em ạ!
Hai người đàn ông đang ngồi đốt thuốc lá phì phèo, to nhỏ, cô vợ chàng họ Cao cởi bỏ nắng gió dọc đường, hiện thân là “gái một con trông mòn con mắt”. Không hổ danh cái tên “Lưu Kim Đính” mà mọi người ban tặng trên bước đường hoạt động nghệ thuật. Chị có một thân hình cân đối, săn chắc và gương mặt thật khả ái. Tiếng nói của chị càng làm cho người ta cảm tình hơn:
- Anh Tải định kéo vợ chồng em đi hát làng phải không? Thôi mà! Buông tha cho chúng em nhờ.
Vẻ mặt hắn chợt ủ dột như có đám ma:
- Ơ hay, người ngoại đạo như anh đây mắc mớ chi đi quyến rũ con nhà nghệ thuật, có vô duyên không? Cũng tại bà con trong ấy cứ nằng nặc đòi mời cho được Cao Quân Bảo và Lưu Kim Đính về diễn họ mới ưng. Bởi anh nhẹ dạ nên mới rước khổ vào thân. Thôi, anh về đây!
Vợ chồng chủ nhà nhìn nhau một thoáng bối rối. Cô vợ bỗng nhỏ giọng buồn buồn:
-Thôi được, vợ chồng em đáp đền lại lòng yêu mến của bà con lần nữa.
Hắn nhảy cẫng lên như cậu bé mừng mẹ đi chợ về.
Anh biết ngay mà! Cái máu nghệ sĩ vẫn còn hừng hực trong tim của hai đứa. Anh về báo lại cho các cụ mừng.
***
Hắn ngồi bó gối giữa sân đình nhìn lên sân khấu mắt không chớp. Vua Lý Thế Dân ung dung, đĩnh đạc trong bộ long bào thêu những con rồng to tướng, đầu đội mũ cửu long nạm minh châu lóng lánh. Xung quanh nhà vua, đám quần thần tung hô vạn tuế. Hắn cười gẫm: “Mới sáng này anh chàng còn ngồi ăn cơm nguội với cá kho sau lưng sân khấu. Thằng con trai đu đú trên vai, léo nhéo xin tiền mua cà rem. Vậy mà giờ hóa thân thành vua của Đường quốc oai phong lẫm liệt một cách. Kệ, làm vua gì chả được, miễn sao xưng “trẫm” gọi các “khanh” dạ rân là sướng rồi. Phủi phấn, lau son xong, ra đường có ai gọi là thằng hát dạo cũng gật...!”.
Gia cảnh của vua Lý Thế Dân còn bi đát hơn vợ chồng Cao Quân Bảo nhiều. Vợ bệnh dặt dẹo suốt, con thì tật nguyền. Song, hễ nghe có người đi rước hát làng, hát trường là vua háo hức khăn gói lên đường ngay. Sau mỗi đợt lưu diễn ở miền biển, nhà vua mang về nào cá khô, nào mắm cái với những chai lọ lỉnh kỉnh.
Vua Đường Thế Dân vừa bước vào cánh gà, thì Phàn Lê Huê hiện ra trong bộ võ phục màu hồng rực rỡ. Nàng đội kim khôi có hai chiếc lông công dài ngoẵng trông thật oách. Tiếng hát của Phàn Nữ cất lên cao ong óng và ngọt như rót mật, kèm theo những động tác nhảy múa điêu luyện. Dứt tiếng hát, tiếng trống đôi đùng đình, đùng đình rộn ràng. Tiếp theo là những mớ thẻ tre nhuộm màu đỏ được người cầm chầu tung lên rào rào. Hai đứa trẻ ngồi hai bên cánh gà sân khấu chạy lum khum nhặt nhanh rèn rẹt cho vào hai chiếc khay đặt trước mặt hai người cầm chầu.
Không hiểu người đời đúc kết “cầm chầu” là một trong bốn cái nên... tránh, có oan lắm không? Chứ đối với riêng tôi thì người đánh trống chầu hát bội trước hết là người biết cảm chuẩn xác về nghệ thuật và có tâm hồn nghệ sĩ mới đánh được những tiếng trống đồng điệu với tiếng hát. Họ ban thưởng cho bạn hát những nắm thẻ thể hiện sự hứng khởi tột cùng. Chuyện tiền nong họ ban thưởng cho những nghệ sĩ hát hay cũng là điều dễ hiểu. Còn lại chuyện bạn hát “đỏng đảnh” trông gai mắt là do đánh chầu không hợp gu với bạn hát. Dẫu sao thì “cái ngu” của họ cũng còn “khôn xa” so với bà giám đốc của một đơn vị kinh tế lấy của nhà nước mua biệt thự hàng trăm lượng vàng để tặng cho một nghệ sĩ để rồi chui đầu vào tù?!
Cuộc đời của Phàn Lê Huê cũng hẩm hiu không kém. Chồng nàng nguyên là anh chàng chuyên ngồi sau cánh gà nhắc tuồng, đêm đêm trông vợ mình nằm tung tẩy trong tay của người khác, mắt lúng liếng đưa tình. Biết đâu những cái liếc mắt đưa tình giả trên sân khấu kia trở thành chuyện thật đằng sau hội trường thì sao? Anh chàng chịu hết nổi, đá thúng đụng nia với cô vợ trẻ xinh như mộng rồi vùng vằng ra đi biền biệt.
Con người ta đôi lúc không công bằng với chính mình. Anh chàng nhắc tuồng kia rất yêu cách diễn xuất, hát tuồng của vợ, nhưng lại không kìm nổi sự ghen tuông. Còn cô vợ thì thà mất hẳn chồng chứ không muốn rời xa sân khấu - cái nơi mà con lại làm cha, vợ lại làm chồng, em lại làm anh... mang hết tâm huyết dàn trải từng thân phận cuộc đời, mua vui cho thiên hạ để rồi người đời gán cho bốn chữ “xướng ca vô loài” nghe buồn tênh.
Ông bầu của gánh hát tuồng là một người đàn ông thấp đậm, hay pha trò tếu táo trong những lúc trà dư tửu hậu. Ông xuất thân từ làng chài, học hành không mấy chữ, nhưng thuộc làu các tuồng tích, phân vai nào ra vai nấy và diễn kép độc rất có hồn. Lớp diễn viên trẻ không ai thủ vai Dư Hồng, Dương Phàm, Đậu Nhứt Hổ giỏi như ông. Khán giả các làng biển thấy ông hóa trang mặt mày dữ tợn, mình mặc áo ngũ sắc, tay cầm phất chủ, chân đeo đầy lục lạc chạy lơi bơi trên sân khấu kêu lên reng rẻng ai cũng thích. Không ai biết ông bầu hát được đào tạo hát tuồng ở trường nào và ông cũng không hề được tặng danh hiệu nghệ sĩ chi cả, nhưng ông rất tinh tường trong việc tuyển chọn đào kép và truyền dạy nghiệp hát rất bài bản. Ông không có được danh hiệu nghệ sĩ trên giấy tờ, nhưng trong lòng của nhân dân các vùng quê, làng biển từ lâu ông đã là nghệ sĩ nhân dân đích thực.
***
Hắn đột nhiên lăn ra bịnh ngay trong đêm diễn cuối cùng. “Không mợ thì chợ cũng đông”. Người ta chỉ cần đến hắn như cánh én báo hiệu mùa xuân. Khi ngày xuân đã về, cánh én kia chỉ còn là chút khái niệm mà thôi. Đứa con gái hắn vét rồn rột những hạt gạo cuối cùng trong chiếc hũ sành đặt ở đầu giường. Hắn cựa mình, uể oải:
- Gánh hát dọn đi chưa con?
Cô bé dừng tay, ngẩng đầu lên, lấy chiếc khăn vắt trên đầu giường lau mồ hôi cho hắn, giọng nhỏ nhẹ:
-Dạ, con thấy họ đang thu dọn phông màn, nghe nói gánh hát chuyển đi hát ở thôn dưới.
Hắn tung chăn, bật dậy chửi đổng:
- Mẹ kiếp! Ai cất công đi thuyết phục từng người để cho chúng nó rước đi?
Cô bé hoảng vía:
- Ba coi chừng ngã xuống đất bây giờ.
Ngay lúc ấy có tiếng vợ hắn đằng hắng từ ngoài bậu cửa:
- Sao không dậy mà đi theo gánh hát luôn cho rồi, còn nằm đó rên rỉ? Ông đúng là kẻ vác tù và cho nhà hàng tổng. Chuyện của làng nước đâu ai mượn ông lo? Giờ bệnh hoạn có ai thèm bén mảng không?
Hắn nén cơn giận bộc phát. Mà hắn có giận trước mặt vợ chỉ đổ thêm dầu vào lửa chứ ích chi:
- Mình nói vậy nghe sao phải, tui quen biết nhiều, giúp làng nước một chút cũng tốt chớ sao.
Cô vợ được làm già:
- Ông bảo giúp là giúp nghĩa làm sao? Họ đưa ông có mấy xu dính túi, bắt ông phải đi cả trăm chỗ năn nỉ từng người. Trên đời này chỉ có ông là dại nhứt!
Hắn run lên bần bật, mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, quát:
- Cô có im đi không thì bảo! Đúng là cái loại đàn bà đái không qua ngọn cỏ!
Thấy hắn “nổi cơn”, vợ hắn im thin thít, lặng lẽ rút lui có trật tự.
Cơn giận chưa nguôi, hắn bỗng nghe có tiếng nói cười ồn ã:
- Chú Tải, mày ở đâu? Tội nghiệp chưa? Mới hôm qua còn đi đứng mạnh như thần, giờ nằm quẹp một chỗ.
Ông bầu hát nói vừa dứt lời thì vợ chồng Lưu Kim Đính ào vô xuýt xoa:
- Bỏ lỗi cho tụi em nhé! Mới hay tin anh bệnh, tụi em có chút quà...
Hắn cảm động, bối rối. Cách ăn nói hoa mỹ thường ngày chợt biến đâu mất.
- Chú và hai em bày đặt quà cáp làm chi, đến thăm nhau là quý hóa lắm rồi!
Mọi người còn đang trò chuyện, chợt từ bên ngoài vọng vào tiếng nói khàn khàn của một ông lão:
- Cháu Tải nằm ở chỗ nào?
Rồi tiếng trả lời của vợ hắn:
- Dạ thưa bác, nhà cháu đang nằm trong phòng. Mời bác đi theo lối này.
Hắn hết nhìn Dư Hồng lại nhìn sang vợ chồng Lưu Kim Đính bằng cái nhìn dò hỏi. Ông chủ bầu hiểu ý, cười nhẹ:
- Các cụ ở trong làng đến thăm cháu đấy. Mấy ông trưởng phó thôn không làm tròn trách nhiệm thăm hỏi cháu trong lúc đau ốm đã biết lỗi, nên nhờ các cụ đến thăm để tỏ lòng biết ơn. Nghe nói thôn xuất quỹ trả tiền đi lại rước gánh hát cho cháu. Chú nói thiệt nếu không có những tấm lòng nhiệt thành vì nghệ thuật như cháu thì có lẽ tụi chú chắc phải bỏ nghề.
Hắn chớp mắt liên hồi lộ vẻ xúc động:
- Cháu không nhận tiền đâu. Cháu giúp cho bà con trong làng đó là tâm nguyện của cháu.
- Anh không nhận tiền của các cụ thì được rồi, nhưng còn bó hoa các cụ tặng cho anh, anh không nhận sao?
Hắn ráng sức đứng dậy ôm bó hoa từ tay của ông lão tóc bạc phơ, lòng lâng lâng cảm xúc:
- Cảm ơn các bác!
Ông bầu hát bật cười khùng khục:
- Thằng Tải biết không? Đó là quà của ông trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện tặng cho chú sau đêm diễn. Chú tặng lại cho các cụ trong làng cảm ơn sự mến mộ tuồng cổ. Song, các cụ lại nói: “Nếu không có những người làm chiếc cầu nối như chú Tải thì lấy đâu có bạn hát về diễn. Thằng Tải là người xứng đáng nhận bó hoa đó hơn cả!”.