07/05/2011 - 10:19

KỶ NIỆM 57 NĂM CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ (7/5/1954 - 7/5/2011)

Điện Biên Phủ - Thắng lợi vĩ đại của chiến tranh nhân Việt Nam

Cách đây đúng 57 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân và các lực lượng vũ trang ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến công chói lọi nhất, đỉnh cao nhất của cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 - 1954.

Đánh giá tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay: chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”(1).

Bộ Tổng tư lệnh họp bàn kế hoạch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thực hiện lời hứa với Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.  Ảnh: TL 

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) là một cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân do toàn dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện nhằm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Trong chiến dịch Đông-Xuân 1953 - 1954, chiến tranh nhân dân Việt Nam được nhân lên một tầm cao mới. Với tinh thần “tất cả để đánh thắng”, cả nước cùng ra trận, cả nước cùng đánh giặc trên khắp mọi chiến trường.

Nhân dân khắp mọi miền đất nước vừa tích cực động viên chồng con, anh em tòng quân, nhập ngũ lên đường ra tiền tuyến; gia nhập lực lượng vũ trang địa phương đánh địch tại chỗ; đi thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục vụ chiến đấu, vừa tích cực đóng góp lương thực, thực phẩm để bộ đội “ăn no, đánh thắng”.

Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương được thành lập do đích thân Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Cùng với đó, Hội đồng cung cấp mặt trận cấp liên khu như Liên khu 4, Liên khu 3, Liên khu Việt Bắc và cấp tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Thọ, Sơn La... được thành lập. Các hội đồng đó làm nhiệm vụ tổ chức huy động sức người, sức của ở hậu phương chi viện cho tiền tuyến, nhất là cho mặt trận Điện Biên Phủ. Tính riêng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng bào các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đã đóng góp hơn 260 nghìn dân công (tính ra thành 14 triệu ngày công), 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ. Về bảo đảm vật chất, đồng bào đã đóng góp cho chiến dịch 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Chỉ tính riêng số vật phẩm đã chuyển được ra mặt trận là hơn hai chục nghìn tấn, trong đó có 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62,7 tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô(2).

Phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã huy động sức người, sức của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Tây Bắc, Việt Bắc và nhiều tỉnh vùng tạm chiếm đồng bằng Bắc Bộ. Hàng trăm nghìn đồng bào đã hăng hái đi thanh niên xung phong, dân công tham gia làm đường, vận tải tiếp tế, không quản ngày đêm, không sợ gian khổ, hy sinh, dũng cảm mưu trí, quyết tâm đưa hàng ra mặt trận, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu kịp thời.

Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho một lực lượng ở xa hậu phương, phục vụ chiến dịch, với thời gian dài ngày, gặp rất nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã giải quyết thành công do biết phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

Chiến dịch Đông - Xuân 1953-1954 là một điển hình thành công của chiến tranh nhân dân Việt Nam về sử dụng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích), về sự phối hợp giữa vận động chiến và du kích chiến, giữa mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch, giữa chiến trường chính và chiến trường phối hợp. Với các đòn tiến công chiến lược đó, ta đã tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với hàng trăm vạn dân, và quan trọng là đã phân tán cơ động chiến lược của thực dân Pháp ra nhiều nơi, buộc địch lâm vào thế bị động đối phó.

Chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của bộ đội chủ lực. Bộ đội chủ lực là nòng cốt của lực lượng vũ trang cách mạng, có tác dụng quyết định trong việc tiêu diệt sinh lực chủ yếu của địch. Với lực lượng gồm bốn đại đoàn bộ binh 308, 312, 316, 304 (thiếu một trung đoàn) và một đại đoàn công pháo (351), bộ đội chủ lực ta đã tạo thành “quả đấm mạnh” tiến công, đập tan hệ thống phòng ngự tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Bộ đội chủ lực mạnh, với các đòn tiến công quân sự mạnh ở Lào, đông - bắc Cam-pu-chia, Tây Nguyên, Tây Bắc Việt Nam, nhất là ở Điện Biên Phủ, đã phân tán lực lượng cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích và phong trào đấu tranh vùng sau lưng địch phát triển.

Thắng lợi của ta trong chiến dịch Đông-Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ, khẳng định đường lối xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Ba lực lượng ấy dựa vào nhau, cùng xây dựng, phát triển, kết hợp và phối hợp với nhau tạo thành sức mạnh vô địch của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.

Sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam thể hiện trong Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt nguồn từ đường lối cách mạng, đường lối chính trị, quân sự; nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đồng thời còn bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống và giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử.

Với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nói chung, Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta luôn trân trọng sự phối hợp chiến đấu với nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Lào, Cam-pu-chia; luôn ghi nhớ, biết ơn sự giúp đỡ tích cực có hiệu quả của Chính phủ, nhân dân Trung Quốc, Liên Xô (trước đây) và các nước khác; sự ủng hộ của nhân dân và các lực lượng cách mạng tiến bộ trên toàn thế giới; song luôn nhận thức được rằng nhân tố quyết định làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Đại tá, TS TRẦN VĂN THỨC
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

-------------

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 220.

(2) Ban Tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 202.

Chia sẻ bài viết