* HỒNG - SA
Hồi còn đi học, tôi và Thái rất thích đọc thơ của Nguyễn Bính. Thái rất thích chuyện “cô lái đò” với một mối tình dang dở: cô xinh đẹp, vui tươi, làm cho khách sang sông ai cũng mến. Từ đó nảy sinh một mối tình với một chàng trai. Nhưng không rõ vì sao, chàng trai đi biệt. Cô lái đò chờ, chờ mãi, rồi hy vọng tan dần...! “Cô đành lỗi hẹn với tình quân”! Từ đó...
... “Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng sông,
Cô lái đò xưa đi lấy chồng!
Vắng bóng cô em từ dạo ấy,
Để buồn cho những khách sang sông”!
Thái nào phải là một khách sang sông của cô lái đò ấy. Nhưng chàng ta cũng cảm thấy buồn! Cái buồn của Thái làm tôi cũng buồn lây!
Khi vào bộ đội, chúng tôi mang theo hình ảnh cô lái đò của Nguyễn Bính và câu chuyện tình dang dở. Ngờ đâu, trên những nẻo đường chiến đấu, chúng tôi lại gặp một cô lái đò thật sự, và từ đó đã nảy sinh một câu chuyện tình rất thương tâm...
* * *
Kim Hằng là một nữ du kích có rất nhiều thành tích, được địa phương ca ngợi về tinh thần dũng cảm và mưu trí trong chiến đấu. Hằng không đẹp lộng lẫy, nhưng có cái duyên ngầm. Gương mặt cô lúc nào cũng dịu dàng, rất dễ gần gũi với mọi người. Đặc biệt là cô có cái miệng rất tươi lúc nào cũng hé nở một nụ cười tự nhiên. Nhưng Hằng rất nghiêm túc. Giỡn mặt với cô không được đâu! Bọn lính trẻ chúng tôi có những anh chàng hấp tấp buông những lời trêu ghẹo, đều bị trả đũa rất linh hoạt, rất lịch sự và cũng rất đau. Hằng càng được nhiều anh nể mặt, dù cô chỉ mới hai mươi tuổi.
Chiến trường ngày càng ác liệt. Hằng được điều về phụ trách một trạm giao liên, hằng ngày đưa rước cán bộ và bộ đội qua lại con kinh PH. Đây là nơi trọng điểm bảo đảm cho tuyến liên lạc chủ yếu của vùng này, giữa miền Tây sông nước. Trạm liên lạc của Hằng còn đảm nhiệm đưa cán bộ, tài liệu và vũ khí đến nhiều nơi thường phải qua đồn giặc. Trong các trận đánh quan trọng, các cô giao liên này còn có nhiệm vụ chuyển thương binh về phía sau. Trạm giao liên của Hằng thường xuyên hoàn thành tốt các nhiệm vụ, nhứt là Hằng, người chỉ huy trẻ luôn luôn gương mẫu.
Mỗi lần có việc phải sang sông, bọn chúng tôi mong được gặp Hằng, nói vài ba câu chuyện cho vui đời lính. Nhưng yêu cầu ấy lắm lúc cũng không đạt được, vì khi nắm được thời cơ yên tĩnh, Hằng ra lệnh xuất phát. Xuồng từ trong rạch nhỏ ra kinh lớn, rồi chèo hết tốc độ vượt sang bờ bên kia, chui vào một cái xẽo cho khách lên bờ. Nếu chậm trễ thì có khi không kịp tránh máy bay địch. Pháo của chúng từ xa cũng thường nhằm vào đây mà nhả đạn, nên phải nhanh chóng ra khỏi khu vực “tử thần” này! Tuy vậy, nhiều anh bạn cũng mong muốn có nhiều thời gian gần gũi “cô lái đò”, ngoài tình đồng đội còn có một thứ tình cảm ngọt ngào giữa trai gái... Nhưng mỗi lần xuồng cặp bến ở trạm khách bên kia thì thường nghe một câu của Hằng: “Chúc các anh, các chị đi đường mạnh khỏe. Hẹn gặp lại”. Con đò lập tức rời bến. Khách nhìn theo giơ tay vẫy vẫy. Thế là thôi. Khách tiếp tục hành quân, mang theo vài mẩu chuyện về “cô lái đò” dùng làm những món “lương khô” tình cảm để đem ra nhấm nháp mỗi khi nhớ đến mối tình một phía.
Trong số khách si tình đó có Thái. Tôi biết chắc như vậy, vì không có bí mật nào mà Thái lại không nói với tôi. Vì không lần nào nói gì được trong những chuyến sang sông nguy hiểm như vậy nên đã mấy lần, Thái viết thư nói rõ tình cảm của mình rồi gởi lại cho Hằng qua tay cô giao liên chèo mũi. Một hôm, Thái nhận được một bức thư trả lời. Thái mở ra xem. Xem xong, Thái buồn bã bảo tôi: “Đọc đi”! Trong thư chỉ có mấy dòng ngắn ngủi viết nắn nót: “Anh Thái thân mến! Tình hình còn căng thẳng quá, Hằng chưa nghĩ đến chuyện yêu đương. Nhứt định sẽ có ngày Độc- lập. Chừng đó sẽ tính sau. Xin cám ơn tình cảm của anh”. Thái đọc lại bức thư. Cả mấy ngày sau, Thái thường ngồi tư lự, không buồn trò chuyện với ai. Và từ đó tôi thường nghe Thái nghêu ngao mấy câu thơ được dịch từ một bài thơ tình của một nhà thơ Pháp:
“Lòng tôi chôn một khối tình,
Tình trong giây phút mà thành thiên thu!
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu,
Mà người để khổ như hầu không hay”!
Thái than: Người ta yêu trong giây phút mà thành thiên thu. Còn tao yêu biết bao lâu thì mối tình của tao sẽ kéo dài đến ngày tận thế...
Tôi cố an ủi Thái. Nhưng tôi đâu có đủ lời để làm dịu bớt những nỗi “vạn kiếp sầu” của những anh chàng mang bệnh tương tư. Sau đó ít lâu, tôi được điều ra đơn vị chủ lực, rồi đi, đi mãi, hết miền Tây lại đến miền Đông! Thái ở lại tỉnh nhà, rồi lại cũng đi, hết U Minh lại Đồng Tháp. Chúng tôi không có điều kiện liên lạc với nhau. Tôi nghĩ giản đơn, nỗi buồn nào rồi cũng tan dần theo năm tháng, nhứt là trong thời chiến. Tình hình luôn bắt buộc người lính phải đối phó với địch, đâu ai có thể ngồi mãi thở than cho một mối tình, dù đó là mối tình đầu, hay là mối tình đuôi đã khắc cốt tự năm nào. Tôi yên chí, dù “cô lái đò xưa đi lấy chồng” thì mối tình của Thái cũng tan dần, chớ không phải như những “mối tình mang xuống tuyền đài không tan” trong pho tình sử ngàn xưa!
* * *
Năm năm trôi qua. Bỗng một đêm trên đường công tác, tôi và Thái gặp nhau ở một trạm giao liên giữa Đồng Tháp. Mắc võng nằm kế bên nhau, chúng tôi kể cho nhau nghe biết bao là chuyện. Tôi chực nhớ đến Hằng, hỏi luôn:
- Con bé Hằng, cô lái đò của mầy ngày trước, thuộc về ai rồi? Hay cô đã “bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng sông” như cô lái đò của Nguyễn Bính? Đứa nào được cô ta thì như được vàng đó nhé!
Đang vui, Thái bỗng nín lặng, dường như bị nghẹn ngào bởi một cú “sốc”. Tôi cảm thấy câu hỏi vừa rồi đã gợi lại cho Thái một nỗi buồn sâu lắng, nên chuyển sang chuyện khác. Nhưng sau một lúc im lặng, Thái thở dài một tiếng nghe rất não nuột, rồi nói chậm rãi:
- Từ lâu rồi, tao không nói với ai về mối quan hệ giữa tao với Hằng, vì nói ra, e lại gợi buồn cho người khác. Nhưng mầy đã nhắc đến Kim Hằng thì tao cũng kể để chia bớt với mầy một mớ tâm tư! Hằng bây giờ không thuộc về ai cả, mà thuộc về truyền thống chiến đấu của địa phương của Hằng. Tên của Hằng nằm trong danh sách của gần một trăm liệt sĩ của xã PH. Mộ của Hằng cũng đã được qui tập về nghĩa trang. Tao đã tham gia vào cái việc ân tình nầy. Lúc nào có dịp, mầy cũng nên đến đó thăm Hằng để đáp đền cái nghĩa sang sông! Chuyện là vầy: Sau bức thư coi như một thông điệp từ chối bằng hai chữ “tính sau” ấy, tao không gặp Hằng vì cô cố ý né tránh, không để cho mối quan hệ rắc rối thêm. Cho đến một đêm, khi ta đánh một đồn địch ngoài quốc lộ, tao bị thương cùng một số đồng chí khác. Dân công tải thương về bờ kinh, chuyển anh em xuống xuồng đưa về trạm quân y dã chiến ở phía sau. Các chiếc xuồng nhanh chóng ra khỏi nơi tập trung, bơi xuôi theo dòng nước. Còn lại một chiếc, chỉ có thể chở được sáu người. Trong khi đó, số thương binh còn lại cũng đúng là sáu. Vậy thì hai người chèo phải tính sao đây? Chẳng lẽ lại bỏ hai thương binh lại bến? Tao định xin ở lại đi sau, nhưng lúc ấy, tao nghe đúng là tiếng của Hằng nói to, ra lệnh đưa cả sáu thương binh xuống xuồng. Tao nghĩ: vậy thì xuồng phải chở đến tám người, chìm mất... Tao còn đang băn khoăn thì nghe tiếng Hằng bảo người chèo phía trước: “Chị Năm, tôi với chị lội xuống nước, vừa đẩy, vừa nâng chiếc xuồng, đi ngược dòng nước, nhanh chóng vô cái xẽo kế nhà ông Hai Lâm, đi tắt ra cánh đồng Tư Hải. Từ đó, mình đẩy xuồng tắt ruộng tới ngọn rạch Cái Sơn. Ở đây có nhà dân. Mình mượn xuồng đưa bớt thương binh qua đó rồi trở ra kinh, chèo đến bệnh xá. Phải hết sức khẩn trương vì có thương binh nặng. Thế nào địch cũng bắn pháo vô đây chận đường rút lui của quân mình! Đừng để anh em bị thương một lần nữa”.
Tao chỉ nghe phía trước “ừ” một tiếng, rồi chiếc xuồng nhẹ lướt trên dòng nước. Khi xuồng vô tới ruộng, nhiều chỗ nước cạn, hai người phụ nữ ì ạch đẩy, nặng nề lắm! Những tiếng thở gấp làm tao rất xót xa nhưng chẳng biết làm sao... Khi xuồng ra đến giữa đồng thì pháo địch bắn đúng vào nơi tập trung lúc nãy.
Đưa thương binh lên trạm, nhận ra tao, Hằng nói nhanh: “Ủa anh Thái”. Hằng đứng lặng như không biết phải làm gì, rồi tự nhiên hai dòng nước mắt rơi rơi... Tao gượng cười, nói lắp bắp: “Cám ơn Hằng. Cám ơn chị Năm! Đêm rồi, vất vả quá”. Tao không nói gì được nữa, rồi nước mắt cũng tuôn tuôn. Tao khóc mà lại mừng, khi nghĩ rằng nước mắt của Hằng vì tao mà đã đổ...
Các cán bộ quân y sơ bộ xử lý các vết thương và đưa thương binh nặng lên tuyến trên. Tao lại đi. Và Hằng cũng về ngay. Hai đứa không nói được điều gì thêm nữa, nhưng có lẽ, nước mắt đã nói thay lời! Tao nghĩ đó là tín hiệu của tình yêu, là kết quả của hai chữ “tính sau” trong bức thư ngày trước. Đó là một số “phần trăm” của Hằng được cộng vào mối tình đơn phương năm chục phần trăm của tao lúc ấy. Phải chi tình yêu là một đại lượng có thể cân đong đo đếm được thì tao cũng cố tìm cho ra cái ẩn số làm nức lòng người ấy!
Nói đến đây, Thái ngừng lại như để trở về với những kỷ niệm ngọt ngào ngày ấy. Rồi Thái tiếp:
Tuy vậy, tao vẫn thấy trong mối quan hệ giữa tao với Hằng, tình yêu cứ nặng dần lên khi tao nhận được mấy bức thư thăm hỏi của Hằng lúc tao nằm điều trị ở bệnh xá trung đoàn. Tao định khi điều trị xong, sẽ đi tìm Hằng. Không ngờ một hôm, Hằng đến thăm tao! Vậy là đã rõ: Tình trong như đã, mặt ngoài cũng đã luôn! Hằng đến thăm tao năm lần trong ba tháng tao điều trị vết thương. Mỗi lần đi là một lần khó khăn, nguy hiểm, vì lúc bấy giờ tình hình ngày càng phức tạp. Khi tao về đơn vị, được đưa đi học, rồi lại được điều về một địa bàn mới rất cách trở bởi nhiều con sông. Tao và Hằng chỉ còn liên lạc được với nhau bằng thư từ, nhưng rất hiếm hoi. Tuy vậy hai đứa vẫn thương yêu, tin tưởng, đợi chờ!
Hai năm sau, cho đến một ngày... Ngày ấy, trời như đổ sụp trên đầu tao. Một anh bạn đi công tác về báo tin, khi đi qua vùng PH, anh được tin Hằng đã hy sinh khi tham gia vào một trận đánh lớn tại địa phương, với nhiệm vụ là chuyển thương binh về phía sau. Anh bạn không nắm hết các chi tiết về cái chết của Hằng, nhưng việc Hằng hy sinh là điều chắc chắn...
Được tin nầy, tao như người mất hồn. Thông cảm tâm trạng tao, cấp trên cho tao đi phép. Những việc tao tìm hiểu thêm càng làm tao thêm yêu và kính phục Hằng:
Đêm ấy, trận đánh sắp kết thúc. Ta cơ bản đã chiếm được đồn giặc, chỉ còn vài ổ đề kháng. Phải giải quyết dứt điểm trận địa vì trời sắp sáng. Các lực lượng tập trung vào nơi địch cố thủ. Trong khi đó, ta chưa đem hết thương binh ra phía sau. Còn mấy người bị kẹt trong các lớp rào dây kẽm gai của địch. Không ngần ngại nguy hiểm, Hằng cùng mấy cô trong trạm giao liên bò vào cõng được ba anh ra bãi tập kết, rồi lại trở ra cõng tiếp những người còn lại. Chẳng may, một quả lựu đạn gài nổ ngay khi Hằng vừa qua lớp rào thứ nhất. Hằng hy sinh trên tay của các đồng đội. Trong đồ đạc của Hằng để lại, có bức thư Hằng chưa kịp gởi...
Sau một tiếng thở dài, Thái nói:
Chuyện “cô lái đò” của tao là vậy đó. Nhớ Hằng, tao cũng nhớ đến cô lái đò của Nguyễn Bính. Khách sang sông có buồn, nhưng đâu có cái buồn của ai như cái buồn của tao khi “cô lái đò” của tao không còn nữa. Tao cũng mượn mấy vần thơ của thi sĩ để nói lên tâm trạng của mình:
Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng kênh,
“Cô lái đò” xưa đã bỏ mình!
Đã quyết đấu tranh vì nghĩa cả,
Tình riêng nào ngại phải hy sinh!
“Vắng bóng cô em từ dạo ấy”, chắc là khách sang sông cũng buồn! Khách sang sông của Hằng phần lớn là chiến sĩ. Khách buồn vì vắng cô lái đò vui tính, mến khách, và nhứt là dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, đầy trách nhiệm, dám hy sinh tính mạng của mình để bảo đảm an toàn cho khách. Rồi không biết từ đâu, cái bến khách của Hằng được người qua lại gọi là “Bến Kim Hằng”! Cái tên Kim Hằng bỗng trở thành một địa danh mà bà con ở địa phương rất trìu mến và trân trọng. Trong tim tao cũng có một “Bến Kim Hằng” với “cô lái đò” mà tao thương nhớ mãi...
* * *
Thái nằm yên. Nhưng ai biết được, nơi “Bến Kim Hằng” trong lòng của Thái, đang tràn ngập nhớ thương!
Trời chưa sáng, nhưng chúng tôi đều không muốn ngủ. Không ai kể chuyện gì thêm, mỗi người một tâm sự. Thái thỉnh thoảng lại thở dài. Sáng ra, chúng tôi lại chia tay. Thái ngậm ngùi. Tôi buồn rơi nước mắt. Xưa nay, tôi ít khóc. Nhưng hôm nay, tôi muốn để cho nước mắt nói thay lời!...