07/08/2011 - 10:53

Báu vật của đời tôi

Truyện ngắn: PHẠM MINH GIANG

Năm ấy là năm 1967. Tôi – thượng sĩ Phạm Xuân Lâm, 23 tuổi, chiến sĩ đơn vị cao xạ pháo mười hai ly bảy, chiến đấu tại địa bàn Quân khu Bốn. Trận địa của đơn vị tôi trên một quả đồi cao thuộc huyện Bố Trạch.

Cả ngày phơi nắng trên lưng đồi, rồi đêm lại phơi sương, phơi gió. Căng thẳng lắm. Giờ ăn cơm, giờ ngủ thì thay kíp trực. Toàn bộ thời gian còn lại, những người lính chúng tôi phải dỏng tai lên mà nghe ngóng mọi động tĩnh, mắt thì dán lên bầu trời theo dõi từng chuyển động nhỏ của từng tia nắng, từng ngọn gió, từng giọt mưa, theo dõi từng chuyển động nhỏ của các đám mây, các vì sao trên trời...

Cả tiểu đoàn toàn con trai. Hầu hết là trai chưa vợ. Chẳng nói thì mọi người cũng rõ là cánh lính chúng tôi thèm một ánh mắt long lanh, một nụ cười con gái như thế nào. Vì thế hễ có dịp được phân công vào làng liên hệ công tác, hay làm công tác dân vận gì đó là mắt anh nào anh nấy cứ sáng rực cả lên.

Còn tôi? Trong lòng tôi cũng khao khát không kém gì đồng đội. Thế nhưng, tính tình tôi nhút nhát, cho nên sau sáu tháng trời tôi mới quen được Hương.

Hương kém tôi ba tuổi, cũng là chiến sĩ mười hai ly bảy của Trung đội tự vệ xã. Nước da Hương ngăm ngăm, nhưng bù lại, Hương có thân hình khỏe khoắn, có đôi mắt đẹp và tiếng nói trong trẻo ấm áp.

Thế rồi chúng tôi yêu nhau.

Cái điều sẽ đến nó đã đến. Hương đã có thai ba tháng.

Nhận được tin từ Hương, ban đầu tôi choáng váng cả người. Tôi mới hai mươi ba tuổi đầu, chiến tranh còn ác liệt, vợ con vào rồi sẽ ra sao?... Tôi đã và sẽ làm khổ Hương, làm khổ con mình nữa... Hơn nữa, tôi hiện là trung đội trưởng, phó bí thư chi bộ. Chi bộ và cấp trên sẽ kiểm điểm tôi. Tôi sẽ phải chịu kỷ luật...

Tôi bàn với Hương là phải uống thuốc để bỏ cái thai đi. Tôi có anh bạn thân làm quân y lại giỏi cả thuốc đông y nữa ở ban hậu cần... Thế nhưng bàn nhiều lần, Hương dứt khoát không nghe...

Hương bảo: anh không phải lo gì cả. Tại em. Tại em cả. Anh sẽ không bị kỷ luật gì cả...

Hôm ấy, trời đã khuya lắm, tôi và Hương vẫn không nỡ rời nhau. Bỗng tôi nghe thấy kẻng báo động (nhà Hương chỉ cách trận địa của tôi khoảng một cây số cho nên nghe tiếng kẻng rất rõ), tôi phải tức tốc chạy về đơn vị. Cả đơn vị có lệnh tập hợp, hành quân gấp. Thế là tôi không thể nào kịp báo tin cho Hương được nữa...

* * *

Suốt ba bốn tháng trời ròng rã, ngoài chiếc ba lô to bè, bao gạo, bao đạn, người nào cũng phải mang vác một thứ. Không nồi niêu xoong chảo thì hòm đạn. Không nòng pháo thì tầm pháo hay bánh xe. Mà có phải nhẹ đâu! Cái tầm pháo ba mươi lăm cân hai người khiêng. Cái bánh xe hai mươi hai cân. Mà lính ta thời ấy thì leo ngoeo lắm. Chúng tôi hành quân suốt dải Trường Sơn, qua mùa mưa đến mùa khô... Điểm cuối cùng chúng tôi tới là một cánh rừng cao su. Sau này mới biết đó là rừng Lộc Ninh. Thế rồi đơn vị tôi đã chiến đấu nhiều trận.

Quả thật trong đợt hành quân dài và liên tiếp những trận đánh ác liệt, tôi tạm thời quên Hương. Có những lúc chợt nghĩ đến, tôi cảm thấy như là mới tối hôm qua. Cũng có lúc tôi lại cảm thấy như là đã lâu lắm rồi... Sau đợt ấy là những ngày đêm nằm rừng nằm rú chờ lệnh. Bấy giờ nỗi nhớ Hương mới da diết làm sao! Có lúc tôi cảm thấy hình như mình không chịu nổi.

Nhưng rồi... những trận đánh ác liệt lại tiếp diễn. Sau chiến dịch, đại đội của tôi chỉ còn lại một phần ba, phải sát nhập vào đại đội khác. Nhiều đồng đội của tôi đã ngã xuống trên mảnh đất Nam bộ, vĩnh viễn không trở về với gia đình nữa. Tôi may mắn chỉ bị thương trong một trận đánh đầu năm 1975. Đến ngày hòa bình, từ quân y viện tiền phương, tôi được đưa thẳng ra bệnh viện ở Bắc Ninh điều trị tiếp.

Tháng 10 năm 1975, tôi được xuất ngũ về quê.

Về quê ngày hôm trước thì ngay ngày hôm sau, tôi xin phép bố mẹ đeo ba lô vào khu bốn, nói là vào đơn vị lấy giấy tờ, để tìm Hương.

Tôi về xóm cũ làng xưa. Cả một xóm ven đồi chỉ toàn những hố bom và hố bom... Không còn một nóc nhà nào.

Tôi tới Ủy ban xã nhờ các đồng chí tìm hộ Hương.

Tôi cũng quen và yêu chỉ biết có Hương, chưa kịp hỏi tên hai cụ thân sinh ra nàng. Các đồng chí ở xã cho biết ở vùng này có tới mười o tên Hương. Ròng rã hai tháng trời, tôi từ xã lên huyện, rồi lại từ huyện về xã, rồi về xóm bản, tìm đến cả mười người tên Hương... Nhưng thật buồn, không có Hương nào là Hương của tôi cả. Tôi đành thất vọng đeo ba lô ra về...

* * *

Ở quê, bố mẹ tôi đã nhắm cho tôi một cô gái tên là Quyên kém tôi sáu tuổi, người dong dỏng cao, da trắng, tóc dài chấm gót. Quyên là dược tá bán thuốc ở hiệu thuốc của huyện. Nhà tôi và nhà Quyên là hai nhà thân tình. Những năm tôi đi xa, Quyên vẫn thường sang chơi thăm nom và chăm sóc bố mẹ tôi. Quyên thương tôi thật sự. Nhưng mà tôi chỉ coi Quyên như một người bạn.

Tôi không nói cho ai biết. Nhưng trong lòng tôi đêm ngày đau đáu nỗi nhớ Hương và đứa con chưa biết mặt. Không biết bây giờ Hương và con ở đâu? Cuộc sống thế nào?...

Hàng ngày tôi như kẻ mất hồn. Có lúc đang tự dưng vui cười đấy. Rồi tôi lại trầm lắng hẳn. Ai hỏi cũng không nói. Ai gọi cũng không thưa... Người ta bảo tôi mắc bệnh thần kinh. Rồi cũng chẳng ai thúc giục tôi lấy vợ nữa.

Bố mẹ tôi đã già. Các cụ lo buồn lắm. Nhưng hễ cứ động đến chuyện vợ con là tôi lại nổi khùng lên...

Thời gian cứ thế trôi. Thoáng chốc đã ba năm trời kể từ ngày tôi xuất ngũ. Một hôm tình cờ tôi đọc báo ở thư viện tỉnh thấy có đăng tin và ảnh một nữ chiến sĩ mười hai ly bảy, đơn vị C4 bộ đội địa phương Quân khu Bốn, đúng đơn vị của Hương. Tôi mừng quá, cầm luôn tờ báo chạy một mạch về nhà, quên cả xe đạp để ở đó.

Về nhà, quỳ xuống trước mặt bố mẹ, cầm tờ báo giơ lên tôi nói: “Con phải đi tìm vợ con con...”.

Tối hôm ấy, cả xóm kéo đến hỏi thăm tôi. Cả nhà chuẩn bị hành lý để mai tôi lên đường.

Sớm hôm sau, tôi mua vé ô tô vào khu Bốn. Rời bến xe thành phố, tôi đi bộ suốt một ngày, qua nhiều lần hỏi thăm, đến chiều tối tôi đã gần tới được địa chỉ người đồng đội của Hương đã ghi trên báo.

Qua con ngõ mọc đầy cây sim, cây mua là đến một ngôi nhà nhỏ lợp lá. Một người phụ nữ mảnh dẻ quay lưng về phía tôi đang phơi quần áo trên bờ rào.

Nghe bước chân đến gần. Người ấy quay lại.

Thật không ngờ! Tôi không tin vào mắt mình nữa? Đây là tỉnh hay đây là mơ? Tôi dụi mắt mấy lần... Rồi ngây người ra...

Người đứng trước mặt tôi là Hương!

Hương đúng thật rồi! Cũng đôi mắt ấy, cũng đôi môi ấy, dẫu rằng có già dặn đi, nhưng tôi không bao giờ quên được!

Sau một phút thẫn thờ, tôi ôm chầm lấy Hương. Hương cũng lặng đi một phút. Rồi nàng gục vào vai tôi khóc nức nở...

Bất thình lình nàng buông tôi ra, lau nước mắt và nói một cách cứng rắn:

- Thôi, anh về đi! Anh về với gia đình của anh đi!...

Có lẽ Hương nghĩ rằng tôi đã lấy vợ. Hơn ba năm sau hòa bình rồi cơ mà?

Tôi nắm tay Hương:

- Đơn vị hành quân gấp trong đêm, nên anh không nhắn được em. Rồi đơn vị đi tít vào Bình Long, Phước Long cho đến tận ngày hòa bình. Anh bị thương. Điều trị xong, anh đã đi tìm em khắp ngả... Giờ anh vẫn chỉ có một mình. Nếu hôm nay không gặp em, anh cũng sẽ chỉ đi tìm em suốt đời... Tôi lại ôm lấy Hương. Lần này thì Hương khóc to hơn. Nàng khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt nàng ướt đẫm cả hai vai áo tôi...

Bất chợt có tiếng gọi “Mẹ! Mẹ!”...

Một bé gái trạc lên chín, lên mười chạy lại với Hương...

- Thủy! Hương gọi con và nói với tôi trong nước mắt:

- Đây là Thủy, con của chúng ta đấy...

Hương nói với con:

- Đây là ba Lâm của con. Con lại với ba đi...

Bé gái mở to mắt ra nhìn tôi, lạ lẫm...

Ôi! Con tôi! Con tôi đấy ư?

Trừ lúc còn bé sáu, bảy tuổi về trước đến bây giờ, tôi chưa bao giờ khóc. Thế mà giờ đây, sống mũi tôi cay cay, cay cay... Rồi, tự nhiên, không kìm được, tôi khóc.

Bé gái chạy lại với tôi. Tôi giang rộng hai tay ra đón bé gái vào lòng... Và, hai bố con cùng khóc...

* * *

Đã qua ba mươi tư năm rồi. Tôi đưa hai mẹ con Hương về quê Thái Bình, xin cho Hương làm công nhân Công ty May mặc của tỉnh. Tôi đi học tiếp đại học rồi về công tác ở một ngành kinh tế. Hai năm sau, chúng tôi sinh cháu Chung. Bây giờ hai cháu đều là kỹ sư. Cháu gái công tác ở Ủy ban kế hoạch. Cháu trai là kỹ sư cầu đường. Tôi đã nghỉ hưu về làm tổ trưởng dân phố. Gia đình tôi đang sống yên bình hạnh phúc trong một ngôi nhà khang trang bên dòng sông Trà thơ mộng. Giờ chúng tôi có hai thằng cháu ngoại kháu khỉnh.

Tôi vẫn thầm cảm ơn bố mẹ ông bà, cảm ơn mảnh đất khu Bốn anh hùng đã sinh ra và ban tặng cho tôi một báu vật. Đó là Hương – Chung – Thủy, ba con người yêu quý nhất của đời tôi...

Chia sẻ bài viết