25/04/2009 - 20:23

Truyện ngắn

"Bà Nguyệt"

• MINH THƠ

Người phụ nữ trung niên ấy có làn da bánh mật, gương mặt hơi bầu, sống mũi cao, đôi mắt hơi lồ lộ đen, lông mi dài cong vút lúc nào cũng như ươn ướt, nhứt là cái hàm chẻ hình trái tim rành rạnh, đôi má lúc nào cũng hồng hồng. Ấy vậy mà dì sống độc thân, chẳng có họ hàng quyến thuộc. Ở đây cả năm hơn mà xóm tôi từ già đến trẻ chẳng ai biết tên dì, chỉ gọi là dì Năm. Thỉnh thoảng, người ta thấy dì Năm dẫn về một người phụ nữ lạ: có người ăn mặc dễ biết đó là người thành thị, có người rặt nông thôn với một hoặc hai đứa con nít chạy lúc thúc theo cùng. Cũng có những lần dì dẫn về tới ba, bốn người phụ nữ, dắt theo ba, bốn đứa con nít. Có người hỏi nó đi đâu? - Con vô thăm ba! Ai dẫn con đi? Má Năm! ... Dì phải gởi khách những nhà hàng xóm ở bớt, để có hầm tránh pháo...

Mẹ tôi cũng trạc tuổi dì Năm, hai bà rất thân nhau, mẹ tôi là cán bộ phụ nữ của huyện, năm bảy ngày mẹ ghé nhà, dù gấp cỡ nào cũng đến thăm dì Năm rồi mới đi. Nhưng chiều hôm ấy, mẹ tôi cùng với bốn năm chú bộ đội về nhưng không ghé nhà như mọi khi mà đến thẳng nhà dì Năm. Tay mẹ tôi run run cầm tấm giấy, đưa cho dì. Mẹ tôi nói giọng nghẹn ngào đứt quãng:

- Chị Năm ơi, anh Năm đã... hy... sinh... rồi!

Dì Năm chưa đọc đã buông lá thơ báo tử bay là đà xuống đất, ngã quỵ . Mẹ tôi và mấy chú bộ đội xúm khiêng dì Năm lên giường, bà con nghe vậy cũng chạy đến chật nhà. Cái bàn thờ dã chiến đã được dựng lên giữa túp lều, khói nhang nghi ngút, cuộc lễ truy điệu giản đơn với sự chứng kiến của hơn chục bà con lối xóm...

* * *

Sau Tổng tấn công Mậu Thân 1968 và tiếp theo những năm sau đó, chiến tranh ngày thêm ác liệt. Xóm tôi có nhiều nhà chạy tản ra cặp vùng ven lánh bom đạn, số thì tha phương cầu thực, số bà con quyết bám đất thì tản chạy lên đồng cất chòi trong những lùm cây. Nhà tôi và dì Năm cất chung một cái chòi trên đầu ngàn dưới tán cây gừa và mấy bụi tre, máy bay cáng gáo quần đảo cách nào cũng không sao phát hiện được. Mẹ tôi hầu như luôn vắng nhà, một hai tháng đi công tác tranh thủ ghé thăm chị em chúng tôi giây lát, bà cho ít gạo, quà tiền thì thầm với dì Năm xong xuống xuồng đi. Dì lo cho chúng tôi đâu thua gì mẹ và chúng tôi gọi dì bằng má!

Nhưng “má” đi cũng không thua gì mẹ. Dì Năm đi hai, ba ngày lâu lắm là năm sáu ngày, lại dắt một hai người khách về. Tuy chòi nhỏ nhưng ít khi vắng khách, khách ngoài thành vô thì chờ người thân đến rước, còn cán bộ, bộ đội đến để nhờ dì đi móc nối giữa người thân vô thăm. Dì Năm là gạch nối thâm tình của biết bao gia đình cán bộ và bộ đội, bởi vậy anh em đã đặt cho dì thành danh “Bà Nguyệt”. Bất luận ai đến nhờ là dì Năm đi ngay. Bà chẳng cần đến tấm giấy lộn lưng, ngay cả thẻ căn cước bà cũng không có. Chỉ cần người đến nhờ bà đúng địa chỉ của người thân mình hiện ở đâu, tên họ gì, chừng bao nhiêu tuổi, dáng dấp, đặc điểm ra sao và một số chi tiết cần thiết, bà khắc ghi vào đầu - “Cần chi giấy tờ, lỡ gặp giặc thêm rắc rối”. Các chuyến đi của dì Năm gay go, trở ngại, nhiều kịch tính. Chuyện đáng nhớ nhất là lần bà đi móc vợ của một cán bộ tên Dũng tập kết vượt Trường Sơn về những năm đầu thập niên 60.

Được biết đồng chí Dũng xuống tàu tập kết ở tại bến Chắc Băng, vợ trở về Cà Mau. Thông tin rất ít ỏi: vợ ông tên Phấn ở trên Sài Gòn. Sau ba ngày đi hết đường này hẻm nọ, mà Sài Gòn khu nào đường hẻm như ổ nhện, mật thám an ninh như rươi. Nắng tháng ba như đổ lửa xuống mặt đường, trời chẳng chút gió. Họng nghe khô rát, miệng đắng chằng, dì Năm thấy đầu con hẻm kia có xe nước mía dưới tàn cây trứng cá, dì Năm ghé vào. Bà bán nước mía xởi lởi xã giao:

- Hình như bà chị không phải người thành phố?

- Tôi ở quận Phú Nhuận, sang thăm bà chị. Chỉ có ghi địa chỉ mà lúc đi quên xem lại.

- Bà ấy tên gì?

- Bả tên Phấn, chừng ba mươi tuổi mặt mày dễ coi...

Người bán nước mía nói ngay:

- Bà Phấn đẹp lắm, tuổi gần bốn mươi mà như gái hai mươi vậy, vợ đại úy mà. Có đứa con gái mười bảy, mười tám, giống mẹ đẹp khỏi chỗ chê.

Ngày hôm sau, chính viên đại úy lái chiếc xe Jeep đưa bà Phấn, cô con gái và bà Nguyệt chạy về hướng Cần Thơ - Phụng Hiệp. Trên xe chỉ có bốn người, bà Phấn kể:

- Đám Ngụy quyền địa phương biết gia đình tập kết, mình có chút nhan sắc chúng bu như ruồi, nhứt là thằng Tâm trung úy Ban 2 nó thường tới lui hăm dọa ép tôi làm vợ bé. Cậu ruột tôi, là ba của cậu Tùng đây biểu “thôi cháu lên ở tạm nhà thằng Tùng, chị em hui hút đùm bọc nhau, nó là đại úy ngụy nhưng người mình đó”. Thấy tôi với cậu nó ở chung thiên hạ độc mồm, độc miệng nói là vợ chồng. Tôi bảo cậu Tùng mặc kệ, nhờ vậy mà khỏi ai nghi kỵ.

* * *

Một buổi chiều, mây đen bao phủ cả bầu trời, sấm sét nổ vang rền, giông gió ào ào kéo tới, làm ngã liệt những đọt cây, rồi cơn mưa ầm ào trút nước, mưa mỗi lúc thêm to, mưa kéo dài đến tối. Sau bữa cơm chiều qua loa, má con tôi rút vô mùng trùm mền mà vẫn còn lạnh, má không cho bắt radio sợ sét đánh, ngoài gió mưa vẫn trút cơn giận dữ.

Chúng tôi ngủ ngon lành. Bỗng có tiếng kêu:

- Bà Nguyệt ơi! Rồi... Bà Nguyệt ơi...

Má tôi ngồi dậy, bà kéo mền đắp kín chị em tôi lại, bật hộp quẹt đưa vô lồng đèn đốt, bà cầm chiếc lồng đèn sáng lờ mờ đi về phía cửa chòi ngoài trời cơn mưa vẫn như ai cầm tỉn mà trút nước, má tôi giục:

- Ai đó, vô chòi đi, ở ngoải lạnh chết.

Người khách bước vô chòi cởi tấm nylon che mưa ra, nhưng quần áo đã ướt nhem, thấy vậy má vào trong lấy chiếc khăn đưa cho người khách lau đỡ lạnh. Thấy người khách tay đeo đồng hồ, bà hỏi:

- Mấy giờ rồi cậu?

- Dạ hơn một giờ khuya rồi...

- Cậu ở đâu, chắc là có chuyện gấp?

- Dạ cháu ở cơ quan Kinh tài. Cháu tên Quang, quê ven biển Trà Vinh, mấy thằng bạn đi công tác ở trên đó về nói lại mẹ cháu vừa mất, mợ và đứa con nhỏ khổ lắm, không có gạo ăn, đạn bom thì ác liệt nên cháu rất nóng lòng. Các anh bộ đội chỉ bảo đến “bà Nguyệt” nhờ đi móc nối trong vòng mấy ngày là có ngay. Nay cháu đến nhờ dì giúp...

Dì Năm vui vẻ nhận lời. Sau khi chỉ dẫn đường đi nước bước, địa chỉ, tên họ vợ con và dặn dò kỹ lưỡng một số việc cần thiết. Quang lấy trong bóp đưa cho dì Năm sáu mươi tấm giấy bạc còn thẳng băng.

Gọi chị em tôi thức dậy, dì Năm ân cần dịu ngọt căn dặn chúng tôi tỉ mỉ từng việc, rồi bà kéo tôi vào cái chưn chỏng phía trong vách, kê sát tai tôi nói nhỏ: “Má giấu ở đây hai chỉ vàng với một ít tiền, nếu ở nhà hết tiền xài, má chưa về, vô giở chưn chỏng nầy lên lấy một ít ra xài rồi để lại cẩn thận như má vậy”. Bà kêu thằng Hiền lại dặn thêm: “... con Lành lớn phải thương em, thằng Hiền cũng lớn rồi, mười tuổi chớ bộ, phải giúp chị, thấy máy bay đảo, chị em mau chạy ra hầm, má đi hai, ba ngày má về ...”. Bà móc xấp tiền trong túi ra lấy một tấm đưa lại cho tôi trước mặt khách. Bà nói: “Tiền lộ phí của cậu Quang đây đưa, má cho lại cho con ở nhà có xài gì thì xài”. Bà bước vội vào trong lấy chiếc khăn khoác vào người, đội chiếc nón lá, bà nói:

- Cậu Quang ở lại chơi với con tôi, sáng về đơn vị, hai ba ngày trở lại gặp vợ con!

Quay sang thằng Hiền bà ôm nó vuốt ve bịn rịn, thấy cử chỉ âu yếm của bà, như linh cảm chuyến đi lần nầy có điềm chẳng lành, không như những lần trước. Rồi bà bước ra cửa chòi. Mưa giông vẫn ì ầm trút xuống. Những tia chớp sáng lòe giăng khắp đó đây, kèm theo những tiếng nổ rền trời.

Đã năm ngày trôi qua, dì Năm vẫn chưa về! Người khách nọ cũng chẳng trở lại đón vợ?

... Trời vừa khuất mình, một chiếc xuồng cập bến chòi, người phụ nữ tướng quen quen bước vội lên bờ, chị em tôi reo mừng hô to: “Má về, má về!...”. Khi bà bước vào chòi, hóa ra là mẹ của chúng tôi. Bà nói ngay:

- Lành ơi, má con đã bị bắt rồi! Có người nhìn mặt chỉ bắt tại chợ Phụng Hiệp, mẹ về dắt hai chị em con đi, dọn đồ xuống xuồng nhanh lên...

Cái chòi nhỏ của chúng tôi không có đồ đạc gì, ngoài mùng mền, vài bộ áo quần thường mặc của má và chị em tôi chẳng còn gì nữa, chị cùng đi với mẹ tôi cũng lăng xăng phụ dọn tiếp... Chẳng mấy chốc cái chòi còn lại trống không, tôi sực nhớ lời má dặn nơi giấu hai chỉ vàng và tiền, tôi liền nói với mẹ, mẹ tôi giục “vào lấy đi, mình bỏ chỗ nầy, không quay lại nữa đâu!”. Tôi vô lấy gói vàng và tiền bỏ túi, trở ra thấy mẹ tôi đốt ba nén nhang đoạn cắm vào lư hương bà khấn: “... Anh Năm ơi, anh sống khôn thác linh hãy phò hộ cho chị Năm tai qua nạn khỏi!”. Ngồi xuống xuồng ngó ngoái lại cái chòi, thấy ba đầu nhang cháy đỏ, lòng tôi gợn nỗi buồn xót xa!

Ngày hôm sau, máy bay quần đảo bắn phá dữ dội. Hàng đoàn trực thăng đổ quân xuống đồng Lái Hiếu...

* * *

Tôi đi học Trường Nguyễn Việt Hồng được một năm. Kế đó, đầu năm 1973, tôi và một số bạn được ra miền Bắc.

Các bác, các cô ở miền Bắc cho chúng tôi sang học ở Liên Xô.

Đến cuối năm 1979, tốt nghiệp bác sĩ, tôi trở về Việt Nam. Lẽ đương nhiên là tôi được ưu tiên đưa về miền Nam.

* * *

Những năm đầu mới giải phóng, công việc bộn bề ngổn ngang. Nơi tôi vừa được phân công về là một bệnh viện lớn nằm tại trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Đã mấy lần định xin nghỉ phép đi tìm tông tích má tôi (tức dì Năm), nhưng mãi đến 30 tháng 4 năm 1980 tôi mới được toại nguyện.

Tôi về cố hương. Cái quê hương đã cùng tôi khổ cực suốt thuở ấu thơ, thăm lại bà con thân thuộc. Ai cũng đã trở về sửa sang lại vườn ruộng, nhà cửa san sát đông vui, bến sông khách thương hồ xuôi ngược dập dìu, ruộng mía bạt ngàn, ống khói lò đường mọc lên chen chúc... Mới có mấy năm hòa bình mà quê hương tôi biết bao thay đổi. Sáng hôm sau mới có đò trở ra Phụng Hiệp, tôi ở lại một đêm với quê hương.

Nghe tôi về, nhiều bà con kéo đến chơi kể lại rằng: Sau ngày giải phóng miền Nam, “bà Nguyệt”có trở về đây thăm, ở lại vài ngày. Bà có lội lên đầu ngàn nơi cái chòi bà và các cháu ở khi xưa, bà đào bới kiếm tìm vật gì, rồi bà đi mất tăm tới bây giờ. Tôi được biết nguyên nhân bà bị bắt hồi mấy năm trước: có một cán bộ Kinh tài ăn cắp tiền của cơ quan. Hắn đến nhờ “bà Nguyệt” đi móc vợ nó vô để hai vợ chồng cao bay xa chạy đến nơi khác làm ăn. Nhưng “trời bất dung gian” nó bị giặc bắt, bị đánh đập tra khảo hắn khai lung tung, khai cả chuyện móc nối vợ nó nên “bà Nguyệt” và vợ con nó bị bắt tại bến đò Phụng Hiệp. Nó khai luôn chỗ cơ quan đóng. Địch cho trực thăng đổ quân ồ ạt, nhưng khi gặp nhà không chòi trống vướng trái nổ chết cả chục thằng. Bọn giặc bực tức bắn thằng phản bội chết luôn.

Được cung cấp được một số thông tin mới, tôi liền đón xe qua vùng Duyên Hải- Trà Vinh. Đã hai ngày tìm kiếm tình cờ tôi gặp một người đàn ông trung niên có vẻ là cán bộ địa phương. Người ấy chăm chú nghe câu chuyện, rồi bảo:

- Ở đây có một người gần giống như vậy, gốc gác bà nầy ở Cần Thơ, có chồng hy sinh, nhưng con rể của bà thì phản bội đầu hàng. Địa phương chúng tôi xác minh để lập thủ tục công nhận gia đình liệt sĩ gặp rắc rối mấy năm nay vẫn chưa xong! Cô quay trở lại hơn ngàn mét, có ngã ba quẹo mặt chừng chục mét hỏi cô Thủy bán cá biển. Mà thôi để tôi dẫn cô đi hỏi thăm...

... Trước mắt tôi một căn nhà lá nửa phía trước nền đất liền, nửa phía sau lót sàn ván trên cái mương cạn. Đứng trước cửa nhà người cán bộ lớn tiếng gọi:

- Cô Thủy ơi có khách!

Người phụ nữ đứng trong nhà nói với ra:

- Ai đó, mời vô!

Tôi nhận ra ngay “bà Nguyệt”. Tôi chạy ào vô nhà ôm bà “Má!, con nè má ơi!” Bà còn ngỡ ngàng chưa kịp nhận ra ai. Tôi vừa khóc vừa bệu bạo: “Con là con Lành nè má!”.

- Con Lành hả, lớn quá vầy nè! Bà ôm đầu tôi vào ngực. Hai má con cùng khóc ròng...

Cuộc tâm tình-không-nói đúng hơn một đêm kể chuyện về cuộc đời hy sinh cho Cách mạng của “bà Nguyệt”, có ông Trưởng ban Thương binh xã hội của xã và đông đảo bà con lân cận đến nghe. Ai cũng xuýt xoa cảm phục, có người buột miệng nói “Vậy mà từ mấy năm nay mình đâu biết bà âm thầm sống cho mọi người, lòng vị tha vô bờ bến!”.

Tôi lật chiếc ví tay lấy đôi bông và chiếc nhẫn đưa lại cho bà:

- Trước khi ra Bắc, con đưa đôi bông và chiếc nhẫn nầy lại cho mẹ con, nhưng bà không nhận, bà bảo con ra miền Bắc yên ổn giữ đi, sau nầy có dịp đưa lại cho má. Đánh nhau lúc tiếp thu ở Cần Thơ, mẹ con đã hy sinh, thằng Hiền cũng hy sinh lúc đánh chiếm thị xã Vị Thanh. Còn số tiền, lúc thằng Hiền đi bộ đội con chia nó phân nửa, con phân nửa chi xài lúc học trường Nguyễn Việt Hồng và trên đường ra miền Bắc.

Dì Năm đưa đôi bông và chiếc nhẫn lại cho tôi, bà nói mà muốn khóc:

- Đồ kỷ niệm đám cưới của má với ba. Má coi con như con ruột rồi, sau nầy có chồng, má cho con coi như là của hồi môn...

Tôi nói nguyện vọng muốn “bà Nguyệt” về ở với tôi, bà trả lời chậm rãi nhưng cương quyết:

- “Thằng Quang có tội với đất nước, nó đã đền tội, còn con Thủy vợ nó thương má, nó nuôi má suốt mấy năm ở tù, ngày giải phóng nó rước má về nuôi, chạy chữa thuốc thang. Má nỡ lòng nào bỏ nó mà đi cho đành. Có thương má, con tới lui thăm lom, là má mãn nguyện lắm rồi!”.

Mấy năm sau tôi về, địa phương đã trao bằng liệt sĩ của chồng dì Năm, chuẩn bị cất cho bà cái nhà tình nghĩa. Tôi hùn thêm số tiền để cho cái nhà kha khá.

Ba mươi tháng Tư năm rồi, tôi lại về thăm “má Nguyệt”, gần tám mươi tuổi bà vẫn còn khỏe.

Tôi mừng!

Chia sẻ bài viết