* Bút ký Nguyễn Thị Thanh Ngọc
Những ngày giữa tháng 5 vừa rồi, tôi về thăm Vị Thanh - thành phố hiền hòa bên dòng Xà No yên ả đúng vào dịp họp mặt kỷ niệm 45 năm Tiểu đoàn Tây Đô (TĐTĐ) tham gia cuộc tổng tiến công, nổi dậy Tết Mậu Thân, do Ban Liên lạc Cựu chiến binh (BLLCCB) Tiểu đoàn Tây Đô phối hợp Đảng ủy, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hậu Giang tổ chức. Kể sao hết nỗi mừng vui, ngậm ngùi ngày hội ngộ của 150 cán bộ, chiến sĩ TĐTĐ ngày ấy và các gia đình liệt sĩ của tiểu đoàn - đã hy sinh trong trận Mậu Thân, và các trận đánh hào hùng, đáng nhớ trong năm 1968.
Đồng chí Lê Hiền Tài, Phó ban BLLCCB TĐTĐ, nhớ lại: Đêm giao thừa, đang hành quân vào xã An Bình thì qua radio, anh em được nghe lời chúc tết của Bác Hồ. Đó chính như một khẩu lịnh, tạo phấn khởi, niềm tin, thúc đẩy bước hành quân. Sáng mùng Một, tiểu đoàn đã chiếm lĩnh vị trí bí mật và an toàn; ba giờ chiều, Đại đội 20 cùng lực lượng Biệt động thị xã Cần Thơ có nhiệm vụ đánh vào hai mục tiêu: Dinh tỉnh trưởng Phong Dinh và Bộ tư lệnh vùng Bốn chiến thuật - mở đầu cho "Tổng công kích, tổng khởi nghĩa" ở Cần Thơ. Do lực lượng mỏng, thiếu hỏa lực, không chiếm được mục tiêu, anh em chuyển sang khu vực Đại lộ Hòa Bình, Hồ Xáng Thổi để đánh...
 |
|
Đồng chí Trần Cừ (phải) người xây dựng phương án tác chiến đánh tàu chiến Mỹ trên sông Cần Thơ. |
Những ngày tiếp theo, cuộc chiến đấu chuyển sang giai đoạn đánh địch phản kích. Thời điểm này, anh em TĐTĐ bị thương vong nhiều. Nhưng, với chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết tâm, cán bộ, chiến sĩ TĐTĐ đã thực hiện tốt nhiệm vụ trong các trận Rạch Ngỗng; Chi khu Phong Điền; các đồn bót trên Lộ Vòng Cung; tập kích vào đoàn tàu chiến Mỹ trên sông Cần Thơ v.v
Đồng chí Trần Cừ, lúc bấy giờ là trợ lý tham mưu TĐTĐ, người có công xây dựng phương án tác chiến, góp phần vào chiến công lừng lẫy nhất của tiểu đoàn trong việc bắn chìm và cháy 9 tàu chiến Mỹ, vẫn còn nhớ như in: Sau Tết Mậu Thân, Lữ đoàn 9 Thủy quân lục chiến Mỹ từ Đồng Tâm xuống Cần Thơ, đóng tại xã Mỹ Khánh (trụ sở UBND xã Mỹ Khánh hiện nay). Chúng dùng hạm đội nhỏ trên sông ngày đêm tuần tra thường xuyên đoạn Cái Răng - Phong Điền; dùng pháo binh dưới tàu lẫn trên bờ, bắn quyết liệt, hỗ trợ cho lực lượng vùng Bốn để phản kích ta.
"Từ tình hình đó, tôi quyết định lên gặp Tiểu đoàn trưởng Hồ Văn Tửu (Bành Tửu) xin ý kiến, bàn kế hoạch đánh tàu chiến Mỹ. Phương án được thông qua. Tám đồng chí được phân công: mỗi 2 đồng chí phụ trách một khẩu B40 - một người mang khẩu B40, một người mang khẩu AK, mỗi người đều mang 4 trái B40. Làm công sự không kịp, chủ yếu lợi dụng các bờ hầm cá vồ, các "khẩu" phục kích dưới mé sông đoạn giữa Trường Tiền - Rạch Kè, tiếp cận trận địa. Theo phương án vạch ra, tàu chiến Mỹ từ Cái Răng vô, "khẩu 1" bắn một phát, các khẩu 2, 3, 4 tuần tự bắn tiếp sau, mỗi khẩu 1 quả; tàu từ Phong Điền ra thì "khẩu 4" bắn trước, kế đến là "khẩu 1", cũng mỗi khẩu 1 quả, bắn chặn 2 đầu; trong 4 khẩu có 1 khẩu bố trí phía bên kia sông, khi tàu Mỹ dạt qua, thì khẩu này bắn dập ngay 1 quả khác. Trận đánh kéo dài trong khoảng hai tiếng rưỡi đồng hồ, hết đạn, anh em rút quân. Tôi về báo cáo tình hình cùng đồng chí Bành Tửu, ước phỏng có 9 tàu chiến Mỹ bị bắn cháy và chìm, không rõ số quân Mỹ chết và bị thương.
Trong những trận đánh đáng nhớ của TĐTĐ năm Mậu Thân 1968, nhất là các trận đánh Mỹ, còn có "trận Bảy Thưa". Theo lời đồng chí Hà Phương, ủy viên thường trực BLLCCB TĐTĐ, khoảng 10 giờ ngày 18-6-1968, Mỹ dùng HU1B đổ quân xuống đồng kinh Bảy Thưa (Khu vực Nhỏ dài kinh Thái Tử). 11 giờ, bộ binh Mỹ - mũi thứ nhất - tiến vào vườn, bị các đồng chí Đại đội pháo chặn đánh. 14 giờ rưỡi, "mũi thứ hai" tiến vào đánh chiếm ngọn kinh Bảy Thưa, các chiến sĩ Đại đội đặc công và đại đội 23 chặn đánh quyết liệt, bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch - khiến "mũi thứ ba" không dám vào, bỏ mặc đồng bọn bị ta vây đánh. Kết quả, ta diệt 1 đại đội Mỹ, diệt 29 tên, bắn bị thương 40 tên, bắn rơi 1 máy bay trực thăng, chúng bỏ xác 1 tên Mỹ
Trận Bảy Thưa đã ghi vào trang sử vàng của lực lượng vũ trang về chiến công đánh Mỹ và thắng Mỹ. Trong trận này, TĐTĐ hy sinh 4 đồng chí, trong đó có đồng chí Đại đội trưởng pháo Huỳnh Phấn Nhung.
Bà Trần Thị Phấn, vợ đồng chí Huỳnh Phấn Nhung, nay đã 72 tuổi, cho biết: Ông tên thật Huỳnh Bá Nhung, do quá thương vợ, nên lấy tên bà làm "chữ lót". Ông quê Long Trị, Long Mỹ, Hậu Giang, bà quê Thới Lai, Ô Môn, nguyên trưởng ban phụ vận huyện Thốt Nốt. Ông bà quen và cưới nhau năm 1963, do thủ trưởng đơn vị ông và thủ trưởng bà "xe duyên". Hai năm sau ngày cưới, bà sinh con gái đầu lòng. Tiếp hai năm nữa, bà sinh con trai. Khi bé được gần hai tháng, bà đưa con vô đơn vị thăm chồng, cho ông được gặp mặt con. Đâu ngờ, đó là lần sau cuối
Lúc con trai khoảng 5 - 6 tháng, bà Phấn náu nương ở nhà mẹ ruột. Một bữa, bà gặp một bà má chiến sĩ ở Bông Giếng trong số các gia đình theo ghe "tản cư" ra Thới An, bà hỏi dồn, vẻ xúc động "Con vợ thằng Nhung đây phải không? Con hay tin gì chưa, Chín Nhung hy sinh rồi!". Đang ẵm con trên tay, bà bàng hoàng, choáng váng, đặt con nằm xuống, nuốt nước mắt vào lòng, không dám khóc. Má bà hay tin cũng rầu rĩ không kém, luôn miệng hối tiếc "Phải dè vậy lúc trước má cho con đi thăm nó, còn làm đồ ăn cho con đem vô cho nó ăn
". Là vợ bộ đội, biết sẽ có nhiều gian khổ, hy sinh, bà vẫn chưa hình dung hết sự trớ trêu của tạo hóa. Năm năm kết nghĩa vợ chồng, tính gộp lại, bà sống chung với chồng chưa tròn hai tháng!
Quyết đi tìm hỏi thăm tin tức chồng cho chính xác, giữa đường gặp chiêu hồi chỉ điểm, bà Phấn bị bắt tại Thới Thạnh, sau đó bị giải về trụ sở cảnh sát Ô Môn. Tên chiêu hồi vốn là dân quân du kích xã Thới Lai. Biết hắn khai rõ ràng rồi, khó mà qua mắt giặc, bà vẫn tìm cách đối phó ... "Chồng chị làm chức gì?", "Không biết". "Chồng chị có súng nhỏ không?", "Không biết". "Quân về có đông không?", "Đông lắm, đóng hai bên bờ kinh Thị đội đến kinh Yết Kỵ dài khoảng hai cây số". "Có súng gì, dài, ngắn?", "Có súng nhóc, dài, ngắn
gì cũng có".
Sau khi giam bà khoảng nửa tháng, không khai thác được gì thêm, chúng thả. Sau ba tháng lánh về Cù lao Ông Chưởng tá túc với vợ chồng người chị ruột, nhớ quê quá, bà lại đưa hai con trở về nhà má ruột, làm bánh đi bán dạo. Khoảng năm 1971, bà xuống Cần Thơ sang lại một quán cơm, cà phê ở Ngã ba Hộ Lực. Sau 30-4-1975, bà tiếp tục ở vậy, lo mua bán, chắt chiu, một mình nuôi nấng hai con. Hiện, con gái bà làm chánh án Tòa án Thới Lai. Con trai bà, ngoài công tác bảo vệ ở cơ quan này, thời gian rảnh còn chạy xe ôm để kiếm thêm thu nhập.
Hoàn cảnh tương tự bà Phấn còn có bà Nguyễn Thị Út, 70 tuổi, hiện ở khu vực 2 phường Trà Nóc, là vợ liệt sĩ Lê Văn Thanh, nguyên Tiểu đoàn phó TĐTĐ. Bà Út và ông Thanh cũng thành hôn năm 1963. Không biết ông để ý bà từ bao giờ mà nhờ đơn vị ngỏ lời; và bà "ưng", đơn giản chỉ vì ông là bộ đội Tây Đô. Cưới nhau xong, một năm ông Thanh về thăm nhà được một, hai, cùng lắm là ba lần, mỗi lần ở nhà cũng không quá ba ngày. Còn những lần được móc nối để vô vùng giải phóng thăm ông, đếm chưa hết đầu ngón tay. Bà nhớ nhất về ông, là giọng nói luôn từ tốn, nhỏ nhẹ, là tấm lòng hết sức thương yêu, chăm sóc vợ con. Trong những lúc về thăm nhà, nhất là khi bà có đứa con đầu lòng, thời gian càng ít ỏi, ông càng cố tranh thủ làm nhiều việc nhà để đỡ đần cho vợ, và chăm con. Nhà không có đất đai, bà làm nghề may mướn. Những khi vợ chồng bên nhau, ông thường ao ước "Đất nước mình mau chóng bình yên, vợ chồng sum họp, anh sẽ ra sức tăng gia sản xuất, chúng mình cùng nuôi con
". Đó là mong mỏi lớn lao, duy nhất của vợ chồng, nên có một ngày, bà không nhớ rõ ai là người đưa tin chồng bà đã hy sinh, dù rất đau lòng, lo âu, bà vẫn không ngừng nuôi hy vọng "Lẽ nào ông hy sinh!". Mãi hơn một năm sau, bà mới chính thức nhận được giấy báo tử của chồng.
Trước đó, bà từng bị bắt giam tại Phụng Hiệp, can tội "vợ Việt Cộng". Lúc ấy, bà đưa cả hai con nhỏ vào tù - một đứa mới biết đi lẫm đẫm, một đứa vừa giáp thôi nôi! Trong tù, khẩu phần ăn bà chia cho hai con nhưng chẳng đứa nào ăn được, chúng đói meo, khóc ngằn ngặt. Suốt tuần lễ, cứ bị tra hỏi "Bà là vợ Việt Cộng phải không? Chồng bà làm gì? Con là con của ai?", bà cứ trả lời "Gia đình gả thì lấy, đâu biết chồng là Việt Cộng hay là gì
". Cuối cùng, chúng thả bà. Ra tù, bà tiếp tục may mướn nuôi con. Đứa con đầu của bà khi lên năm tuổi đã mất. Đứa con gái, chỉ bảy tháng tuổi khi chồng bà hy sinh, nay đã có hai con, nối nghiệp thợ may của mẹ - hôm họp mặt cũng đến dự, được gặp gỡ các chú, bác bộ đội Tây Đô, được nghe kể về trường hợp hy sinh của cha mình: "Trận đánh ở khu Văn hóa - Đại học Cần Thơ bên đường Tự Đức (nay là Lý Tự Trọng) rất quyết liệt. Sở chỉ huy tiểu đoàn bị sụp hầm sau đợt oanh kích của không quân địch, đồng chí Lê Văn Thanh, tiểu đoàn phó bị thương; lúc được lực lượng trinh sát kè ra đến cầu Rạch Bần thì hy sinh
".
Như nhiều liệt sĩ khác trong trận Mậu Thân, hài cốt các đồng chí Chín Nhung, Lê Văn Thanh chưa được tìm thấy!
45 năm ấy bây giờ còn đây những câu chuyện, những cuộc đời - cả người chết, lẫn người còn lại - không chỉ của riêng Cần Thơ, mà cả miền Nam Việt Nam.