Để lại chiến trường một phần thân thể, ông Ý trở về cuộc sống đời thường với tỷ lệ thương tật 81% cùng những bộn bề khó khăn. Tuy nhiên, với tấm lòng vì thế hệ mai sau, ông đã dùng số tiền bán lúa, dừa và hỗ trợ của Nhà nước để lo cho học sinh nghèo. Không phụ lòng ông, nhiều thế hệ học trò xứ dừa đã nỗ lực vượt khó, thành đạt trong cuộc sống. Với họ, ông như “ông Bụt” giữa đời thường.

Thương binh Lê Văn Ý.
Quyết tâm theo cách mạng
Ông Ý (Lê Văn Ý, 81 tuổi, ở ấp Mỹ Sơn Ðông, xã Phú Mỹ, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre) sinh ra trong gia đình nông dân nghèo. Do gia cảnh khó khăn nên năm 10 tuổi, khi vừa học hết lớp tư (lớp 2 bây giờ), ông phải dừng việc học. Kể từ đó, tuổi thơ của ông là những tháng ngày chăn vịt, giữ trâu thuê cho người dân trong vùng để kiếm tiền phụ giúp gia đình.
“Hồi đó, tại xóm Gò Nổi này chỉ có 2 ngôi nhà với 2 chuồng trâu. Ðất rộng mênh mông nên sau vụ thu hoạch lúa, tôi với 2 người bạn cùng trang lứa thường chăn trâu, thả vịt. Năm 1952, giặc Pháp đóng nhiều đồn bót dọc sông Hàm Luông. Ban đêm, cán bộ ta đi công tác trong vùng giặc tạm chiếm, ban ngày cán bộ trở về chuồng trâu ở ẩn chờ cơ hội hoạt động. Do thường xuyên quanh quẩn ở khu vực này nên tôi cùng các bạn được giao nhiệm vụ cảnh giới, báo động. Ðồng thời, cán bộ cũng thường xuyên nhắc nhở anh em tôi phải khắc ghi lời Bác Hồ dạy là chống 3 loại giặc: ngoại xâm, đói và dốt. Vậy là tôi theo kháng chiến và đến năm 1960 chính thức vào biên chế tổ chức” - ông Ý nhớ lại.
Ông Ý kể khoảng đầu năm 1963, ông được phân công làm quân báo cho huyện và nhiều nhiệm vụ khác tại địa phương. Chiều tối 10-4-1966, ông cùng đồng đội nhận nhiệm vụ gài 10 trái mìn cạnh bờ sông Hàm Luông. Khi gài đến quả cuối cùng, không may mìn phát nổ, cướp mất bàn tay phải và mắt trái của ông. Bị thương, ông Ý không còn khả năng để đảm trách công tác quân báo nên được giải ngũ.
Không trực tiếp tham gia chiến đấu, ông Ý chuyển sang sáng tác vọng cổ, tuồng cải lương để phục vụ các chiến sĩ trực tiếp chiến đấu nơi chiến trường. Nói đến đây, ông Ý bỗng chợt buồn, hướng nhìn về dòng sông Hàm Luông như nhớ lại ký ức hào hùng ngày nào. Cũng trên con sông này đã diễn ra những trận đánh ác liệt và đã lấy đi một thân thể của ông. Năm 1967, ông Ý sáng tác bài “Tây Thi” ca ngợi trận đánh tàu kinh hoàng trên sông Hàm Luông ngày 23-3-1967. Tháng 9-1969, khi địch bình định mất xã, anh em đành bám chi bộ sống tại các xã lân cận để tiếp tục hoạt động cách mạng. Ðến năm 1972, trên đường về căn cứ sau khi dự đại hội để gầy dựng cơ sở, ông Ý bị trúng đạn của địch, giập nát chân phải cùng nhiều vết thương khác chi chít khắp cơ thể. Bị thương, ông Ý được đồng đội đưa đi sơ cứu, sau đó phải cắt bỏ phần chân bị giập.
Trong các bài vọng cổ do chính mình sáng tác, ông Ý tâm đắc nhất là bài “Hành quân nhớ Bác” được sáng tác vào ngày 15-2-1975. Theo ông Ý, bài hát ra đời trong hoàn cảnh trường kỳ kháng chiến, thắng lợi sắp đến, hơn lúc nào hết nhân dân cả nước đang trông chờ thắng lợi của chiến dịch mang tên Bác. “Tôi biết đàn, hát, còn việc sáng tác là do đam mê, chứ không qua trường lớp đào tạo nào. Tuy vậy, tất cả bài hát do tôi sáng tác đều được Phòng Văn hóa Thông tin của huyện thời bấy giờ công nhận” - ông Ý chia sẻ.
Bản lĩnh lính Cụ Hồ
Trở về nhà sau ngày đất nước thống nhất, dù bản thân chịu nhiều mất mát nhưng ông Ý vẫn ngày ngày thầm lặng giúp đời. Ý tưởng giúp các cháu nhỏ có hoàn cảnh khó khăn có cơ hội đến trường được ông Ý dần hiện thực hóa. Ban đầu, ngoài việc đến từng nhà các cháu động viên, thuyết phục gia đình không cho con cháu bỏ học, ông Ý còn góp tiền mua tập, sách, viết, rồi đóng học phí cho các cháu. Hằng năm, nguồn thu từ 2,5 công lúa, 2,7 công dừa và tiền hỗ trợ của Nhà nước, ông Ý đều dành để lo cho học sinh nghèo.
Nhắc lại những năm tháng sau ngày đất nước thống nhất, do hoàn cảnh khó khăn, nhiều học trò nghèo phải nghỉ học ông Ý không khỏi bùi ngùi. Ông nói, hoàn cảnh các cháu giống như ông thời nhỏ. Miệt mài vận động, đầu tiên ông Ý nhận giúp đỡ 8 cháu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Do 8 cháu này học từ cấp 1 đến cấp 3 nên ông có điều kiện phân bổ chi phí để chu cấp lần lượt cho từng cháu một. Khi lên cấp 2 rồi đến cấp 3, ông mua 8 chiếc xe đạp để các cháu làm phương tiện tới trường. Chưa kể, ông còn mua 2 chiếc xe máy tặng cho 2 cháu được vào đại học.
“Mỗi lần tựu trường là tôi mắc nợ bởi rất nhiều chi phí cho các cháu phát sinh cùng lúc, khiến tôi không thể lo xuể, đành phải mượn tiền của người thân xoay sở. Khi mượn, tôi cũng hứa nếu tôi chết mà chưa trả hết thì có quyền bán đất của tôi để thu lại. Tuy nhiên, thường sau khi lo chu toàn việc học cho các cháu, hằng tháng bán dừa và nhận tiền hỗ trợ của Nhà nước, tôi đều gom góp trả đủ” - ông Ý nói.
Ðáp lại nghĩa cử cao đẹp của ông, các học sinh nghèo được giúp đỡ đều học rất giỏi. Nay người đã là giảng viên, người thành đạt quay về tìm ông để trả ơn nhưng ông từ chối vì cho rằng việc ông làm chỉ mong góp ít công sức cho quê hương. “Trong chiến tranh, tôi từng nghe Bác dạy là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Vì thế, là người lính Cụ Hồ, tôi phải có trách nhiệm” - ông Ý khẳng định.
*
* *
Ðến nay, ông Ý không còn nhớ đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho bao nhiêu học sinh nghèo có cơ hội được đến trường. Hết thế hệ học trò này đến thế hệ học trò khác được giúp đỡ, trưởng thành, có nhiều đóng góp xây dựng quê hương, đã phần nào giúp ông Ý càng có thêm động lực cống hiến cho đời.
Bài, ảnh: THANH NGUYÊN