20/08/2017 - 14:43

Về Việt Bắc nhớ anh hùng Dũng Mã và Sơn Mã 

Việt Bắc không chỉ là địa danh lịch sử mà còn là vùng non nước hữu tình luôn thu hút đông đảo du khách. Mỗi lần về đây, tôi lại nhớ đến hai vị anh hùng Dũng Mã và Sơn Mã nổi danh từ thời đánh Pháp. Dũng Mã là một trong ba cán bộ chỉ huy trẻ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi sau Chiến dịch Biên Giới, cùng xuất hiện trong bức ảnh nổi tiếng do nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An chụp trước hang đá Lam Sơn.

Từ phải sang: Dũng Mã, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thái Dũng trước hang đá Lam Sơn ở Cao Bằng năm 1950 . Ảnh: Vũ Năng An

Bí danh Dũng Mã- Sơn Mã

Hai vị Dũng Mã và Sơn Mã là hình ảnh tiêu biểu của trí thức trẻ tự nguyện dấn thân cứu nước. Dũng Mã tên thật Nguyễn Xáng, sinh năm 1923, còn người em kề là Sơn Mã tên thật Nguyễn Huynh, sinh năm 1925. Hai anh em cùng lớn lên ở quê hương Quảng Nam- Đà Nẵng.

Cách đây tròn 20 năm, vào tháng 7-1997, lần đầu tiên tôi được gặp và phỏng vấn Thiếu tướng Dũng Mã tại nhà riêng của ông ở Thủ Đức. Ông cho hay anh em ông yêu thích hành khúc “Chiến sĩ Việt Nam”, do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác khoảng năm 1944, đó cũng là lúc nhạc sĩ viết những tráng khúc khác như “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”... cho các binh chủng hùng mạnh tương lai. Riêng ca khúc “Chiến sĩ Việt Nam” thôi thúc bao lớp thanh niên tòng quân giết giặc cứu nước. Bước vào cách mạng, hoạt động bí mật, mỗi người đều cần có bí danh, chàng trai Nguyễn Xáng khi ấy vốn thích cưỡi ngựa, lại mê câu “Khúc anh hùng ca reo nơi biên cương- Bao chiến mã lên đường…” của “Chiến sĩ Việt Nam” nên đã lấy tên Dũng Mã. Sau đó, người em Nguyễn Huynh từ miền Trung ra Việt Bắc, đặt bí danh Sơn Mã.

Quê nội ở xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhưng hai anh em Dũng Mã và Sơn Mã đều sinh ra và lớn lên ở quê ngoại xã Hòa Tiến, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng. “Cha tôi là một nông dân rất hiếu học. Ông tự học chữ Nho và chữ quốc ngữ, viết được văn tự, giúp bà con trong làng khi có việc. Ông là người nghiêm khắc, còn mẹ tôi là một phụ nữ chân quê, hiền lành, hết lòng vì chồng con”- Thiếu tướng Dũng Mã tâm sự. “Nhà tôi đông anh chị em, ba gái bảy trai. Tôi học hết cấp hai thi đậu diplôme, đang học tiếp cấp ba thì thi đậu vào Trường Cao đẳng Công chính Hà Nội. Nếu không vào bộ đội, thì sau bốn năm sẽ tốt nghiệp kỹ sư xây dựng”.

Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nguyễn Xáng đang ở quê nhà được gọi ra Hà Nội học tiếp năm thứ hai Trường Cao đẳng Công chính Hà Nội, tham gia hoạt động trong Hội Sinh viên cứu quốc. Trước tình hình đất nước, ông cùng nhiều sinh viên khác xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ và được cử đi học Trường Quân chính Bắc Sơn tại Thái Nguyên đầu năm 1946. Cũng năm 1946, tốt nghiệp Trường Quân chính Quảng Ngãi, Nguyễn Huynh- Sơn Mã được điều ra Việt Bắc làm huấn luyện viên Trường Sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Giữa năm 1949, Đại đoàn 308- Quân Tiên Phong, đại đoàn đầu tiên của quân đội ta được thành lập, do Vương Thừa Vũ làm Tư lệnh và Song Hào làm Chính ủy, hai anh em Dũng Mã và Sơn Mã được cùng về công tác ở đại đoàn này. Tuy ở hai tiểu đoàn khác nhau, nhưng họ thường tham gia cùng một chiến dịch, có khi phối hợp tác chiến một số trận, chia sẻ thắng lợi lẫn khó khăn.

Tấm ảnh lịch sử quý giá trước vách đá Lam Sơn

Cuối năm 1950, lúc vừa bế mạc Hội nghị tổng kết Chiến dịch Biên Giới tại khu rừng núi đá gần phía Nam thị xã Cao Bằng, nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An đến nói với chàng trai trẻ Dũng Mã: “Theo đề nghị của anh Văn, Bác cho gọi ba cậu Dũng đến gặp Bác tại nhà riêng”. “Ba cậu Dũng” là Thái Dũng- Trung đoàn trưởng Trung đoàn 88, Thế Dũng- Chính trị viên Trung đoàn 102 và Dũng Mã- Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1- Phủ Thông. Tất cả đều thuộc Đại đoàn 308.

“Nhà riêng” của Bác Hồ theo lời nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An thật ra là một cái lán nhỏ ở cửa hang núi đá Lam Sơn. Thái Dũng và Dũng Mã đến trước. Sau khi nghe hai chỉ huy trẻ báo cáo, Người khen ngợi và ân cần căn dặn: “Dũng cảm nhưng cần phải mưu trí nữa”. Nhìn thấy Thái Dũng bị cụt bàn tay phải, Bác Hồ xúc động hỏi về những khó khăn trong sinh hoạt và chiến đấu. Chờ mãi mà không thấy Chính trị viên Trung đoàn 102 Thế Dũng đến, nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An sợ trời hết nắng, mới xin phép cho chụp một bức ảnh kỷ niệm nhân buổi gặp thân mật. Đó là một trong những bức ảnh lịch sử nổi tiếng thời đánh Pháp ở Việt Bắc, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Trung đoàn trưởng Thái Dũng và Tiểu đoàn trưởng Dũng Mã. Sau ngày đất nước thống nhất, Bảo tàng Quân đội đã tặng tướng Dũng Mã bức ảnh này…

Sự hy sinh của Tiểu đoàn trưởng Sơn Mã

Bước vào thu đông 1952, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Lê Hồng Phong 2 giải phóng Tây Bắc. Lúc đó, người anh Dũng Mã đã được thăng chức Trung đoàn phó Trung đoàn 209- Sông Lô thuộc Đại đoàn 312, mà Hoàng Cầm là Trung đoàn trưởng. Còn người em Sơn Mã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 84 thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308. Bấy giờ, quân ta đang thắng lớn trên chiến trường phía Tây Bắc; nên địch cho một binh đoàn tinh nhuệ nhảy dù xuống Đoan Hùng giáp ranh hai tỉnh Tuyên Quang và Phú Thọ nhằm đánh vào hậu phương ta để đỡ đòn cho hướng Tây Bắc. Trung đoàn 36 được lệnh cấp tốc quay về, đẩy quân Pháp lui từ Đoan Hùng về Việt Trì thuộc Phú Thọ.

Trên đường truy kích địch tháo chạy theo đường số 2, đoạn cầu Hai- Trạm Thản, Tiểu đoàn trưởng Sơn Mã dẫn đầu một bộ phận Tiểu đoàn 84 đánh địch, thì bất ngờ bị trúng đạn vào đầu tại Trạm Thản. Ông hy sinh khi trận đánh sắp kết thúc, vào lúc 5 giờ 30 chiều ngày 17-11-1952. Thiếu tướng Dũng Mã nhớ lại: “Khi chú ấy ngã xuống, cả tiểu đoàn đều khóc. Hơn mười ngày sau, lúc chuẩn bị đánh trung tâm Nà Sản ở Sơn La tôi mới hay tin. Hai anh em ruột từ miền Trung ra Việt Bắc, chỉ còn lại tôi...”.

Đầu tháng 12-1952, Dũng Mã bị thương trong trận tấn công cứ điểm Bản Vây của quân Pháp, một điểm cao nằm khống chế phía Tây trung tâm Nà Sản ở Sơn La. Ông được đưa về điều trị tại bệnh viện dã chiến gần thị xã Hòa Bình. Khoảng mười ngày sau, ông bất ngờ nhận được thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng thiệp chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh kèm theo một chiếc áo lụa. Trong thư, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Lúc đầu tôi được tin Sơn Mã và Dũng Mã đều hy sinh nên rất buồn, nhưng sau được biết Dũng Mã chỉ bị thương nên viết thư thăm và chia buồn. Cậu tranh thủ viết kinh nghiệm về trận đánh vừa qua. Bác có quà gửi tặng cậu đây...”. Còn tấm thiệp chúc Tết Quý Tỵ- 1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh do chính tay Người viết mấy dòng bằng mực đỏ: “Bác gửi biếu chú 1 cái áo lụa và chúc chú mau lành mạnh. Nhờ chú chuyển cho anh em thương binh, bệnh binh, cán bộ và nhân viên ở nhà thương- lời thân ái chúc năm mới của Bác”.

Cuộc đời binh nghiệp của vị tướng Dũng Mã có nhiều bước ngoặt. Sau khi tốt nghiệp Trường Quân chính Bắc Sơn, ông về làm thư ký riêng cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp gần hai năm, rồi ra chiến đấu ở Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312, tham gia nhiều chiến dịch lớn trên chiến trường Bắc Bộ. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Trung đoàn trưởng- Đặc phái viên tác chiến của Bộ Chỉ huy chiến dịch. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng Pháp, Dũng Mã về Hà Nội được phân công làm Trưởng Khoa Chiến thuật Trường Quân sự trung cao cấp- tiền thân của Học viện Lục quân ngày nay. Sau đó, ông được điều sang làm Tham mưu trưởng Quân khu Đông Bắc, rồi Tham mưu trưởng Hải quân Đông Bắc. Đến năm 1970, ông sang Lào làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận 31 Cánh đồng Chum- Xiêng Khoảng phối hợp tác chiến với bộ đội Lào. Đối tượng tác chiến chính trên chiến trường Lào bấy giờ là lực lượng đặc biệt của tướng Phỉ Vàng Pao và quân Thái Lan với sự yểm trợ về không quân, hậu cần của Mỹ.

Cuối năm 1973, Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Dũng Mã bị thương khá nặng tại sở chỉ huy tiền phương đặt ở sườn núi Phu-Húa-Sạn (điểm cao 1.830 mét), trong lúc trực tiếp chỉ huy đánh trả cuộc tiến công lấn chiếm của địch ra phía Nam Cánh đồng Chum. Ông được đưa về Hà Nội rồi sang Nga điều trị gần một năm. Sức khỏe bình phục, ông được chuyển về công tác ở Bộ Tổng tham mưu. Đến cuối năm 1977, ông lại được điều về làm Chủ nhiệm Khoa Lịch sử quân sự, rồi Cục trưởng Cục Kế hoạch huấn luyện của Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng).

Từ chiến trường đến nhà trường, bằng tri thức và tinh thần trách nhiệm, tướng Dũng Mã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được đồng đội yêu mến. Ông còn được truyền tụng như một chiến binh thiện xạ, có khả năng cùng lúc cả hai tay cầm súng bắn chính xác mục tiêu.

Cách đây tròn 15 năm tướng Dũng Mã cũng đã bất ngờ ra đi sau một tai nạn vào tháng 6-2002.

PHAN HOÀNG

Chia sẻ bài viết