ÐĂNG HUỲNH
Tròn 75 năm sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (24-11-1946), Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 được tổ chức đã đánh giá thực trạng và kết quả xây dựng văn hóa, con người Việt Nam suốt 35 năm đổi mới. Hội nghị đã khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước từ phát triển văn hóa, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Thế kỷ XXI, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lẫn thách thức. Trong đó, vai trò của thế hệ trẻ trong “tồn cổ”, “nghinh tân” được xem là then chốt. Bằng tình yêu di sản dân tộc, những người trẻ đã miệt mài theo dấu người xưa, ngược dòng thời gian đi tìm tinh hoa văn hóa và lan tỏa những giá trị ấy một cách xứng hợp.
Bên bàn trà Xuân, xin kể chuyện về những người trẻ say sưa với lịch sử, văn hóa miền Tây sông nước...
Những người trẻ “khơi lại dòng xưa”
Họ là những nhà nghiên cứu 8X, 9X, thậm chí sinh năm 2000 của vùng đất ÐBSCL. Tình yêu với lịch sử, văn hóa đã thôi thúc họ đi, tìm và kể chuyện quê hương trong quá khứ vàng son. Cuộc sống vốn đi thẳng theo chiều tương lai, họ chọn cách nhìn lại quá khứ để tiến về phía trước. Ðó là nền tảng nhân văn vững chắc để những người trẻ tự tin “hòa nhập” chứ không “hòa tan” trước làn sóng văn hóa thời đại 4.0.

Anh Nguyễn Thanh Thuận (người đeo kính) trao giấy xác nhận Lịch sử Di tích dân gian cho Ban tế tự Miếu Thần Thành hoàng Ngã Bát (Ðồng Tháp). Ảnh: NVCC
Chiều cuối năm, anh Nguyễn Thanh Thuận, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Ðồng Tháp, mang bó hoa tươi đến thắp nhang cho Hùng Dõng tướng Nguyễn Công Nhàn, ở xã Tân Thuận Tây, TP Cao Lãnh. Kính cẩn khấn nguyện trước anh linh tiền nhân, anh Thuận đảnh lễ như một ông già xưa Nam Bộ rành chuyện lễ nghi.
Trò chuyện với ông Châu Thanh Tân, hậu duệ đời thứ 5 của Hùng Dõng tướng, ông nhắc mãi chuyện anh Thuận cùng Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Ðồng Tháp đã cất công suốt nhiều năm trời, từ Nam ra Bắc để sưu khảo lai lịch, công trạng của tiền nhân. Nhờ đó, những khuất tất, tồn nghi trong lịch sử của Hùng Dõng tướng được làm sáng tỏ, đất Sen Hồng vinh danh võ tướng từng là Tổng Ðốc An Hà, Tổng Ðốc An Giang một cách xứng đáng. Chuyện cũ kể lại, ông Tân nhắc hoài sự mẫn cán của anh Thuận.
“Ông Phó” của hội sử học một địa phương - nhiều người nghĩ chắc “lưng còng, tóc bạc”. Nhưng không, Tết này anh Thuận chỉ mới 34 tuổi, một nhà nghiên cứu 8X có tiếng trong giới Sử học cả nước. Ðã có hàng chục công trình nghiên cứu từ sách đến bài nghiên cứu khoa học, đề tài khoa học... nhưng anh Thuận nhớ nhiều là những lần tìm lại công trạng của các danh nhân, công thần đất Ðồng Tháp xưa và đề xuất tôn vinh xứng đáng.
Còn với tác giả trẻ Vĩnh Thông (tên thật là Huỳnh Lê Triều Phú), sinh năm 1996, nhiều người ấn tượng với anh qua những bài thơ, truyện ngắn và bài biên khảo khi còn học trung học. Lên đại học, anh chọn ngành Văn hóa học của Trường Ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Ðại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Môi trường học tập phù hợp đã mang đến cho anh thêm nhiều tri thức bổ ích về văn hóa, đặc biệt là các lý thuyết, phương pháp, quan điểm… trong nghiên cứu khoa học. Sau thành công với quyển “An Giang núi rộng sông dài” (2015), anh tiếp tục mảng biên khảo với hai quyển sách nghiên cứu công phu “Dấu ấn thượng châu thổ” và “Ðình và làng Bình Thủy” (2021).
Vĩnh Thông cho biết, các nghiên cứu của anh xoay quanh mảng đề tài lớn là văn hóa Nam Bộ, bởi: “Ai cũng sẽ “chắc tay” hơn khi viết về nơi mình sinh trưởng và thuận lợi trong việc khảo sát, thu thập thông tin”. Chàng trai 9X với những công trình nghiên cứu sâu sắc, chắc chắn luận cứ khoa học về địa danh Vàm Nao, Năng Gù... hay về các tôn giáo nội sinh ở vùng đất Thất Sơn được giới chuyên môn đánh giá cao.

Anh Vĩnh Thông trong chuyến đi điền dã trên núi Cấm (An Giang). Ảnh: NVCC
Trong quá trình đi tìm những người trẻ say mê với văn hóa đồng bằng, chúng tôi được dịp làm quen Nguyễn Duy Linh, chàng trai sinh năm 2000, sinh viên Trường Ðại học Nam Cần Thơ. Duy Linh năng động, trẻ trung nhưng khi nói về kiến trúc cổ trên đất đồng bằng, anh trở nên chững chạc, say sưa không thôi.
Anh cất công đi tìm hàng trăm ngôi nhà cổ ở ÐBSCL để ghi nhận hiện trạng, giá trị kiến trúc nghệ thuật, lối trưng bày xưa... và gia thế của chủ nhân ngôi nhà thuở trước. Anh chụp ảnh, dịch lại các tài liệu Hán Nôm, ngõ hầu minh định thêm các giá trị của từng ngôi nhà. Sau gần 5 năm đi và trải nghiệm, đến nay, chàng trai sinh năm 2000 đã có một gia tài tư liệu đồ sộ và đáng mơ ước với cả những nhà nghiên cứu thâm niên.
Nguyễn Duy Linh rành chữ Hán Nôm, viết đẹp và phiên âm, dịch nghĩa chuẩn xác. Ðiều thú vị là kiến thức Hán Nôm ấy do anh tự học, từ hồi còn học lớp 11, 12, chứ không hề qua trường lớp. “Ðam mê thì học được hết. Phải biết chữ Hán Nôm thì mới nghiên cứu sâu về văn hóa Nam Bộ xưa”, anh Linh tâm sự. Chàng trai này lại còn rất rành về học trò lễ, nhạc lễ Nam Bộ, bày trí bàn thờ gia tiên của người Việt ở Nam Bộ theo đúng “chất xưa”. Anh đang ấp ủ một quyển sách về công trình xưa ở ÐBSCL, như một sự tổng kết hành trình “khơi lại dòng xưa” của mình.

Anh Nguyễn Duy Linh nghiên cứu tại đình Thần Tân An (Cần Thơ). Ảnh: DUY KHÔI
Và còn có những người trẻ khác say mê với văn hóa đồng bằng, họ “bắt sóng” nhau trên các mạng xã hội, đồng điệu khi nói về ngôi nhà xưa, miếu thờ cổ, đình làng thiêng trên vùng đất này. Tình yêu di sản văn hóa, lịch sử đã gắn kết họ
với nhau.
Tác giả Vĩnh Thông tâm sự rằng, người trẻ nghiên cứu văn hóa, lịch sử, ngoài trở ngại về vốn sống, trải nghiệm thì sự ngờ vực cũng là điều cần vượt qua. Khi những bài nghiên cứu đầu tiên của anh được công bố, nhiều người hoài nghi, vì lúc đó anh vẫn còn là học sinh. Anh đã chứng minh bằng tài năng và đam mê của mình. Ðể hoàn thiện một đề tài, Vĩnh Thông dành nhiều thời gian đi khảo sát thực tế, tra cứu thư tịch cổ, đối chiếu các thông tin trái chiều…
Còn “ông Phó” Nguyễn Thanh Thuận chia sẻ rằng, không chỉ anh, mà nhiều bạn trẻ bây giờ vẫn rất say sưa, mặn mòi với văn hóa, lịch sử. Họ có kiến thức, chịu khó tìm tòi, đam mê mãnh liệt trong nghiên cứu bảo tồn văn hóa, di sản. “Tôi đã gặp được rất nhiều bạn trẻ có cùng đam mê, họ tự kết nối với nhau, lập nên những nhóm nghiên cứu, tự tổ chức những chuyến đi điền dã và thu được khá nhiều kết quả đáng trân trọng”, anh Thuận nói.
Rốt cùng, điều mà chúng tôi được nghe nhiều từ những nhà nghiên cứu trẻ tuổi chính là cần sự quan tâm từ những cơ quan chuyên môn, sự truyền thụ kinh nghiệm, kỹ năng nghiên cứu và định hướng cho các bạn trẻ, để những nghiên cứu của họ ngày càng vững chắc và nâng cao giá trị khoa học. Hậu bối bước đi, tiền bối dõi theo, hành trình “khơi lại dòng xưa” của họ sẽ bền bỉ, “chân cứng đá mềm” hơn nữa...
Kể chuyện Cần Thơ
Anh Nguyễn An Hà nhắn mời chúng tôi tới Bảo tàng Cầm Thi thưởng lãm những hiện vật anh mới sưu tầm. Rảo bước trên nền nhà cổ, anh Hà nói: “Những viên gạch lát nền này có tuổi thọ trên trăm năm, là gạch lát nền Trường THPT Châu Văn Liêm”. Rồi khi nghỉ chân ở ghế đá, anh Hà lại giải thích: “Ghế đá này là của ông Cả Ðài, một nhân vật nổi tiếng của Cần Thơ xưa...”.

Anh Hà giới thiệu áo dài của quan huyện Trần Như Cang.
Cứ như vậy, mỗi bước chân, mỗi ánh nhìn, mỗi cái chạm khẽ ở Bảo tàng Cầm Thi là mỗi lần chúng tôi chạm vào Cần Thơ xưa. Mỗi hiện vật là một câu chuyện, đằm sâu trong đó là chuyện đất và người Cần Thơ trong quá khứ, lâu thì quá trăm năm, hay chí ít cũng năm, bảy chục năm.
Bảo tàng Cầm Thi tọa lạc ven quốc lộ 91B, thuộc phường Thới An Ðông, quận Bình Thủy. Vừa bước qua cổng chính, du khách sẽ rảo bước trên con đường hai bên là những cánh cổng từng vang bóng một thời. Anh Hà say sưa giới thiệu: Ðây là cánh cổng nhà ông Cả Tố ở Thốt Nốt, đây là cánh cổng nhà bác sĩ Lê Văn Thuấn, một trí thức yêu nước của Cần Thơ... Rồi anh dừng lại thật lâu để kể cho chúng tôi về chiếc cổng đầu tiên từ năm 1917 của Trường THPT Châu Văn Liêm, với hai chữ “C” đan vào nhau với ngụ ý “Collège de Cần Thơ” - tên đầu tiên của ngôi trường này. Càng thú vị hơn khi biết, hàng rào giáp vòng bảo tàng chính là hàng rào của công viên Lưu Hữu Phước được anh Hà mua lại khi công viên được cải tạo.
Anh Hà dụng tâm và dụng công kể lại câu chuyện về Cần Thơ xưa một cách rõ nét, từ những câu chuyện, hiện vật của người thật, việc thật tại Bảo tàng Cầm Thi. Ngôi nhà cổ với kiến trúc và lối bài trí đậm chất Cần Thơ xưa, gợi nét hoài cổ, gợi niềm luyến nhớ. Chầm chậm ngắm nhìn, chiếc ô trầu với ống ngoáy, dao cau, bình vôi nhuộm màu thời gian, rồi bàn nghi, hoành phi, liễn đối với nội dung khuyến thiện, kỳ yên.
Chiếc ghế đá của ông Cả Ðài được cháu nội của ông Cả tặng lại cho anh Hà. Anh Hà nói: “Lâu nay, mọi người quen gọi chợ Cả Ðài, xóm Cả Ðài nhưng không biết địa danh ấy từ đâu mà có, hay ông Cả Ðài là ai... Chiếc ghế đá này là một phần trong câu chuyện”. Hay với cụm hiện vật là phương tiện giao thông, từ thô sơ đến hiện đại, từ xe kéo, xe ngựa, xe xích lô, xe lôi... đến xe lam, xe honda 67... anh Hà phác họa diễn trình phát triển của đô thị Cần Thơ. Rồi anh nói về nhân vật ông Ba Se, một phú hào Cần Thơ xưa, với những chiếc xe hơi tắc-xông chở khách hạng sang và còn lập chợ, cất nhà hát, mở sân banh, kiến diện cuộc văn minh cho vùng đất này.

Hiện vật quý là tờ An Hà Báo.
Lại nói về người Cần Thơ xưa, anh Hà sưu tầm được rất nhiều hiện vật về bà Ðồng Cẩm Vân, nữ hiệu trưởng trường nữ công gia chánh đầu tiên ở Cần Thơ cách đây gần 100 năm. Những chiếc giỏ xách, áo gối do bà Cẩm Vân may, thêu cùng với những giáo trình nữ công gia chánh do bà biên soạn được anh Hà trưng bày trang trọng, như một cách để giới thiệu nét tài hoa của người Cần Thơ. Hơn 200 bộ áo dài xưa được anh Hà dày công sưu tầm cũng là một câu chuyện “hồi xưa, Cần Thơ mình...” đầy lý thú. Ðiển hình là áo dài của ông quan huyện Trần Như Cang ở Cần Thơ, người từng được nhân dân vùng Tân An xưa tín cẩn vì sự liêm khiết, công chính. Và còn bộ sưu tập về sách báo, đồ vật sử dụng, tác phẩm điêu khắc của bác sĩ Lê Văn Thuấn, một trí thức yêu nước của Cần Thơ, một trong những người đứng ra vận động thành lập Viện Ðại học Cần Thơ, tiền thân của Trường Ðại học Cần Thơ bây giờ.
Và với bộ sưu tập sách báo xưa, anh Hà trân quý nhất là bộ sưu tập báo xuân với hơn 200 cuốn, còn vẹn nguyên. Những tờ Lục tỉnh tân văn, Tây Ðô... sau hơn nửa thế kỷ đến nay lần giở vẫn mang đến cho người xem bao xúc cảm. Quý báu nhất, anh Hà sưu tầm được hai tờ An Hà Báo từ cách đây hơn 1 thế kỷ. An Hà Báo là tờ báo Quốc ngữ đầu tiên của Cần Thơ. Vậy nên, những tờ báo mà anh Hà lưu giữ thật hiếm có, khó tìm.
***
Những câu chuyện về Cần Thơ cứ hiển hiện qua không gian trưng bày “đi mỏi chân chưa hết” của Bảo tàng Cầm Thi. Anh Nguyễn An Hà thì cứ sôi nổi, mải mê kể cho khách nghe bao điều thú vị.
Cẩn thận châm trà nóng, bật chiếc máy hát Akai cất lên giai điệu nhạc xuân “rè rè” tiếng xưa, anh Hà tâm sự với chúng tôi về hành trình gần 20 năm “lượm ve chai, tìm phế liệu” - như cách mà nhiều người nói vui về anh. Anh Hà vốn chơi cây cảnh, đặc biệt am hiểu về bonsai. Vườn bonsai của anh rất có giá trị, với những tác phẩm từng xác lập hàng loạt kỷ lục, đoạt nhiều giải quốc tế. “Ðể có một tác phẩm bonsai đẹp thì cái chậu cũng rất quan trọng. Vậy là tôi sưu tầm chậu cổ, gốm xưa để chơi. Cơ duyên đến với thú sưu tầm hiện vật từ đây”, anh Hà nói.
Bén duyên với những hiện vật về Cần Thơ xưa từ khi còn là chàng trai chưa đầy 30 tuổi, với những háo hức, say mê của tuổi trẻ, bây giờ anh Hà đã 44 tuổi, nhưng sự háo hức ấy không “già” theo tuổi mà cứ “trẻ hóa” mãi. Nghe ở đâu có công trình xưa, đồ cũ cần thanh lý hoặc đập bỏ xây mới là anh lại tìm đến mua về, khoác lên từng hiện vật một câu chuyện, một chi tiết thú vị. Vậy là câu chuyện Cần Thơ xưa của anh cứ nối dài, phong phú thêm mãi.
Với anh Hà, việc sưu tầm cần có cái duyên, đôi khi những hiện vật đến với anh một cách tình cờ, chẳng đoán định. Anh chia sẻ rằng, tốc độ phát triển xã hội cứ phát triển đi lên, nhanh đến mức người ta mau quên những gì đã là quá khứ, là “ngày xưa”, “hồi đó”. Anh cố công đi tìm và lưu giữ, kết nối các hiện vật lại với nhau để khách tham quan có thể hình dung bối cảnh và phong vị Cần Thơ xưa, nét tài hoa của người Cần Thơ thuở trước trong sự tương quan của Cần Thơ bây giờ.

Anh Hà giới thiệu hàng rào Trường Collège de Cần Thơ năm 1917.
Gần 20 năm sưu tầm, cũng chẳng biết anh Hà đã tiêu tốn bao nhiêu tiền của. Nhưng đó không phải là giá trị cao nhất và anh Hà cũng không để ý nhiều về điều đó. Với anh, hiện vật vô tri nhưng có hồn, cũ nhưng không phải là thứ bỏ đi, chỉ cần đặt đúng chỗ, kiến tạo cho chúng một câu chuyện thì tự khắc hiện vật sẽ lên tiếng, sẽ thao thiết với người xem bằng dáng dấp thời gian.
Nhà nghiên cứu Nhâm Hùng mấy lần đến Bảo tàng Cầm Thi vẫn luôn say mê khi “nghe” hiện vật kể chuyện Cần Thơ. Ông chia sẻ sự nể phục với một người trẻ như anh Nguyễn An Hà lại nặng lòng hoài cổ, tồn cổ, lan tỏa nét đẹp quê hương. “Có những người trẻ tâm huyết như vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hóa Cần Thơ sẽ không đứt gãy mà còn sinh hoa kết trái nhiều thêm nữa. Trân quý lắm!”, ông Nhâm Hùng nói khi chia tay người kể chuyện Cần Thơ xưa bằng hiện vật.
Vun bồi tình yêu di sản
“Ðể tuổi trẻ yêu quý di sản ông cha để lại, trước nhất phải làm cho tuổi trẻ biết, hiểu về cái hay, cái đẹp của di sản đó. Muốn được như vậy, cần tăng cường quảng bá di sản đến giới trẻ. Con đường đó không đâu hiệu quả hơn từ trường học”, TS. Lê Hồng Phước, Phó Khoa Ngữ văn Pháp, Trường Ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Ðại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, chia sẻ với chúng tôi trong cuộc trò chuyện ngày cuối năm.

Học sinh trải nghiệm tập làm nghệ nhân trong hoạt động do Bảo tàng TP Cần Thơ tổ chức (ảnh chụp khi chưa có dịch COVID-19). Ảnh: DUY KHÔI
Bật tính năng truy cập QR code trên điện thoại, đưa vào trang artbook có hình cô gái trong trang phục dân tộc Khmer bằng nét vẽ đồ họa sinh động, trên màn hình điện thoại lập tức cô gái nhảy múa, cùng với thuyết minh về ý nghĩa bộ trang phục ấy. Lần giở những trang artbook tiếp theo, Lâm Khánh Như, cô bé học lớp 5, Trường Tiểu học An Bình (quận Ninh Kiều) thích thú tìm hiểu về trang phục các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Mẹ của em cho biết, chị được một người bạn tặng quyển artbook “Ðồng bào Việt phục”, thấy hay nên cho con để trải nghiệm.
Từ đó, chúng tôi đã đi tìm nhóm thực hiện dự án “Ðồng bào Việt phục”. Mới hay, ban đầu đây là đồ án tốt nghiệp của nhóm 3 sinh viên: Trầm Minh Thảo, Lê Vũ Huyền Trân và Ðặng Thảo Nhi (Trường Ðại học FPT Cần Thơ). Sau khi báo cáo, nhóm đã cùng với nhóm bạn trẻ đến từ nhiều địa phương trong cả nước hiện thực hóa thành dự án phi lợi nhuận “Ðồng bào Việt phục”.

Một sản phẩm trong dự án “Ðồng bào Việt phục”. Ảnh: Dự án cung cấp
Một trong những sản phẩm ấn tượng của dự án là artbook với hàng trăm hình ảnh thể hiện trang phục nam nữ của 54 dân tộc. Ngoài ra, facebook “Ðồng bào Việt phục” giới thiệu hình ảnh dễ thương về trang phục cùng những lời thuyết minh phù hợp với giới trẻ nhận được sự tương tác cao. Bạn Trầm Minh Thảo, thành viên dự án, chia sẻ: “Mong muốn lớn nhất của “Ðồng bào Việt phục” là lan tỏa những giá trị văn hóa độc đáo của Việt Nam đến với cộng đồng, đặc biệt là người trẻ. Chúng tôi mong muốn khơi dậy sự tò mò, để từ đó người xem chú ý hơn tới văn hóa và kích thích họ tự tìm hiểu về văn hóa nước mình”.
Ông Huỳnh Văn Bảy, Trưởng Ban đào tạo, Trường Ðại học FPT Cần Thơ, cho biết: Ngoài dự án “Ðồng bào Việt phục” thì còn khá nhiều đồ án được các em lấy chất liệu từ nhân vật lịch sử, văn hóa các vùng, miền của Việt Nam để đưa vào đồ án tốt nghiệp của mình, thông qua đó quảng bá về lịch sử, văn hóa dân tộc. Với sinh viên Ðại học FPT Cần Thơ, hai môn học mà sinh viên nào cũng trải qua là môn võ Vovinam và nhạc cụ dân tộc. Từ đó, những người trẻ say mê thổi sáo trúc, gảy đờn tranh, đờn kìm hay tự tin với những thế võ đẹp mắt trong sắc áo xanh truyền thống.
Còn với Trường Ðại học Tây Ðô, những giờ học trải nghiệm văn hóa bản địa của sinh viên nhóm ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn, là ký ức khó phai. Anh Võ Thanh Nhàn, hướng dẫn viên du lịch của Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ và Du lịch Mekong, cựu học sinh ngành Việt Nam học khóa 7 của trường, cho biết những tiết mục trải nghiệm về văn hóa đồng bằng, sinh viên thực hành đờn ca tài tử, hát “Dạ cổ hoài lang”, hóa thân thành thương hồ trên sông nước Cần Thơ hay các chuyến thực tế trải nghiệm di sản miền Tây... sống động và khó quên. Trong hành trình hướng dẫn khách tham quan miền Tây, anh Nhàn lại vận dụng những kiến thức đã học để kể cho du khách nghe vẻ đẹp quê mình. “Những giờ học thời sinh viên về văn hóa đã vun bồi cho tôi tình yêu di sản, văn hóa truyền thống”, anh Nhàn nhớ lại.
Suốt 15 năm qua, năm nào ngành Văn hóa và ngành Giáo dục TP Cần Thơ cũng đều ký kết phối hợp chương trình giáo dục, truyền thống di sản trong nhà trường. Những chương trình như “Một ngày làm nông dân”, “Em tập làm thuyết minh”, “Em tập làm nghệ nhân”, “Khám phá di sản”, “Tìm về di sản”… không chỉ “chơi mà học” mà còn giúp vun bồi tình yêu di sản cho học sinh. Chị Nguyễn Thị Hoàng Oanh, cán bộ Bảo tàng TP Cần Thơ, người từng gắn bó rất nhiều năm với các hoạt động giáo dục di sản trong học đường, chia sẻ: Các em từ lạ lẫm, tò mò rồi thích thú khám phá khi được giới thiệu về những di sản văn hóa, di tích lịch sử, truyền thống địa phương... Nhìn sự say mê của các em, chị Oanh lại cảm nhận hết ý nghĩa của việc trao truyền di sản.

Sinh viên Trường Ðại học FPT Cần Thơ học đàn tranh. Ảnh: TÀI LINH
Từ lúc còn là Hiệu trưởng Trường Tiểu học Võ Trường Toản (quận Ninh Kiều), cô Mạch Lệ Xuân đã thực hiện rất thành công mô hình “Bếp quê”. Nay chuyển công tác về làm Hiệu trưởng Trường Tiểu học Ngô Quyền, cô Xuân tiếp tục duy trì “Bếp quê” với mong muốn lan tỏa những giá trị văn hóa cốt lõi. Học sinh cùng quây quần xay bột bằng cối đá rồi đổ bánh khọt, bánh xèo, hay nấu chè, đổ bánh bông lan... trong giờ học trải nghiệm. Theo cô Xuân, “Bếp quê” được duy trì với mong muốn giúp các em trân quý giá trị lao động, hiểu thêm văn hóa ẩm thực truyền thống. Không kỳ vọng các em làm ra những chiếc bánh ngon, biết cách làm ra một loại bánh đẹp, “Bếp quê” mong muốn nhen ngọn lửa nồng đượm với di sản văn hóa trong các học trò nhỏ.
Theo TS. Lê Hồng Phước, trong việc đưa di sản vào trường học, nên chọn lọc các loại hình di sản phù hợp với bậc học, từ sơ khai, phổ quát đến hàn lâm, sâu sắc. Dần như thế sẽ tạo được “văn hóa di sản” cho học sinh, sinh viên. Ðến khi họ trưởng thành, “văn hóa di sản” đã bám sâu và họ sẽ chung tay bảo tồn di sản.
Vun bồi, nuôi nấng tình yêu di sản trong học đường không có nghĩa là ép buộc hay cực đoan hóa phương pháp. Với kinh nghiệm nhiều năm nói chuyện về đờn ca tài tử, cải lương với học sinh, sinh viên, TS. Lê Hồng Phước vẫn nhắn nhủ các em rằng: Yêu thích loại hình nghệ thuật nào là quyền của mỗi bạn trẻ. Nhưng bên cạnh cái cá nhân đó, mỗi bạn cần có ý thức về trách nhiệm của mình đối với cộng đồng trong vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. “Tôi luôn nhắc các bạn trẻ rằng, một đất nước văn minh là một đất nước mà ở đó truyền thống và hiện đại phải song hành, không cái nào được độc tôn cả”, TS. Lê Hồng Phước nhấn mạnh.
Cần hướng dẫn cho tuổi trẻ rạch ròi được 2 điều: sở thích cá nhân và trách nhiệm cộng đồng. Mỗi người có đam mê riêng. Ðam mê đó có thể không phải là văn hóa dân tộc. Nhưng cũng cần hiểu rằng bảo tồn bản sắc văn hóa là trách nhiệm chung của tất cả mọi người. Nếu hiểu được như thế, thì họ cứ đam mê theo cá nhân, bên cạnh đó cũng sẽ tự có ý thức chung tay bảo tồn văn hóa dân tộc với cộng đồng. TS. Lê Hồng Phước