Trung tướng Lê Văn Tri (1920-2006)
|
|
Trung tướng Lê Văn Tri từng là Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, đề xuất và thực thi kế hoạch đánh B.52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội trong Chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" năm 1972. Ông cũng là người trực tiếp phất cờ lệnh và chỉ huy trận không kích sân bay Tân Sơn Nhất, phát tín hiệu mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân năm 1975. Cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn còn nhiều câu chuyện chưa kể…
Trung tướng Lê Văn Tri tên thật là Lê Chiêu Nghi sinh ngày 13-9-1920 ở làng Cao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nông dân. Có lẽ "chất nông dân" khiến ông thô ráp, chất phác, hiền hậu trong đời thường; nhưng trên chiến trường ông là một chiến binh can đảm, nhạy bén, mưu lược, quyết đoán. Điều đó thể hiện ngay trận đánh đầu tiên mà ông trực tiếp cầm quân.
Cách đây tròn 70 năm, vào cuối năm 1948, cuộc chiến chống Pháp tái xâm lược ngày càng quyết liệt. Tình hình chiến trường biên giới Việt - Lào đang gặp khó khăn nguy cấp. Quân Pháp ở thế mạnh, chuẩn bị binh hùng tướng mạnh từ Lào vượt biên giới qua vùng núi đá hiểm trở Cha Lo - Cổng Trời để tấn công xuống tỉnh Quảng Bình cũng như Khu 4 - phía Bắc miền Trung…
Cha Lo - Cổng Trời (nay thuộc xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, vốn nằm trong hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh) là vùng núi non hùng vĩ, có địa thế hiểm yếu, vách đá cheo leo, vực sâu hun hút, sương mù lạnh lẽo bao phủ quanh năm. Cổng Trời gồm hai khối đá tự nhiên sừng sững nghiêng tựa vào nhau, như hai người ôm nhau, gắn liền với truyền thuyết tình yêu bi kịch của nàng Y Leng và chàng Thông Ma dân tộc Khùa bản địa. Vị trí quan trọng này khi ấy do ông Lê Văn Tri nắm quyền chỉ huy một tiểu đoàn trấn thủ, canh giữ cả mặt trận đường 12. Ông là Tỉnh đội phó Quảng Bình được Bộ Tư lệnh Khu 4, do Thiếu tướng Lê Thiết Hùng làm tư lệnh, điều lên chỉ huy bộ đội chủ lực ở biên giới.
Nhận tin cấp báo quân Pháp chuẩn bị tấn công vượt qua Cổng Trời, nhưng vì trấn thủ ở vùng biên xa xôi nên ông không cách nào liên lạc nhanh xin ý kiến cấp trên. Giữa sương mù lạnh giá, cả đêm không ngủ, âm thanh núi rừng quê hương như tiếp thêm sức mạnh và sự quyết đoán cho vị chỉ huy trẻ tuổi. Hừng đông, ông cho liên lạc triệu tập cuộc họp khẩn toàn ban chỉ huy tiểu đoàn. Sau khi bàn bạc và thống nhất ý kiến, vị chỉ huy trẻ quyết định chủ động "ra đòn" trước. Đây vốn là kế sách dụng binh đầy mưu lược mà tiền nhân Lý Thường Kiệt từng áp dụng khi bí mật mang quân nhà Lý sang tiêu diệt quân Tống ở bên kia biên giới và hạ thành Ung Châu đầu năm 1076, ngăn chặn âm mưu tấn công xâm chiếm Đại Việt.
Khi nghe lệnh từ chỉ huy trưởng Lê Văn Tri, cả đơn vị quyết tâm trận đầu nhất định thắng. Mặt trận đường 12 rền vang tiếng súng. Lửa đạn và bụi mù bao phủ núi rừng. Tuyến đường huyết mạch vùng biên Cha Lo hoàn toàn bị đánh phá. Bước tiến của quân Pháp bị chặn lại và đẩy lùi về phía bên kia biên giới Việt - Lào. Trận đầu Lê Văn Tri trực tiếp cầm quân trên chiến trường đã giành được thắng lợi!
Tuy nhiên, khi trận đánh vừa kết thúc thì có quân lệnh đưa vị chỉ huy trẻ Lê Văn Tri về Bộ Tư lệnh Khu 4. Theo thông báo của Bộ Tư lệnh Khu 4, Lê Văn Tri đã vi phạm quân pháp, tự ý chỉ huy bộ đội đánh phá đường 12 Cha Lo - Cổng Trời khi chưa có ý kiến của cấp trên. Tuy nhiên, trên đường ông Lê Văn Tri về Bộ Tư lệnh Khu 4 thì Thiếu tướng Tư lệnh Lê Thiết Hùng nhận được bức điện khẩn từ Bộ Tổng tư lệnh do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký: Phải nhanh chóng đưa một tiểu đoàn công binh lên phá đường 12!
Tư lệnh Lê Thiết Hùng là một trong tám vị thiếu tướng đầu tiên được phong chính thức của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cùng với các ông: Nguyễn Sơn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Trần Đại Nghĩa, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Hoàng Sâm. Bức điện khẩn giúp tướng Lê Thiết Hùng hiểu rằng cấp dưới của mình đã chủ động đi trước một bước để bảo vệ an toàn cho biên giới, ông cũng thấy sự sáng suốt, nhạy bén trong việc chỉ đạo từ xa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ Tổng tư lệnh quân đội. Thế là vị chỉ huy trẻ tuổi Lê Văn Tri được đưa trở về đơn vị để tiếp tục chỉ huy bộ đội chặn bước tiến của quân Pháp.
Chính nhờ "sự cố" này mà về sau hai viên chiến tướng họ Lê rất quý mến nhau. Hai vị tướng sau này gặp nhau, giãi bày chuyện xưa, cùng hồi tưởng lại nhiều kỷ niệm thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp gian khổ ác liệt, thiếu thốn trăm bề tại một trong những vùng đất lửa biên thùy Tổ quốc.
Tư lệnh Lê Văn Tri (đứng) trình bày với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng về kế hoạch tác chiến Chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" ở Hà Nội năm 1972.
***
Năm 1954, một nửa đất nước được giải phóng. Trung ương quyết định từng bước chính quy hóa, hiện đại hóa quân đội. Riêng quân chủng phòng không thì xây dựng lực lượng phòng không dã chiến, bảo vệ các điểm chiến lược quốc gia. Từ đó, E367 được nâng thành Đại đoàn 367 trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng Pháo binh, sau trực thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ chỉ huy Đại đoàn 367 gồm các ông: Hoàng Kiện làm Đại đoàn trưởng, Đoàn Phùng làm Chính ủy, Lê Văn Tri làm Đại đoàn phó. Nghĩa là từ bộ binh, ông Lê Văn Tri đã chuyển sang chỉ huy pháo binh.
Một thời gian sau, ông Lê Văn Tri rời Đại đoàn 367 xuống Kiến An, Hải Phòng học văn hóa nâng cao và học ngoại ngữ. Đầu tháng 8 năm 1956, ông quay về Hà Nội để lên đường sang tu nghiệp ở Học viện Pháo binh Leningrad của Liên Xô. Một chân trời mới mở ra cho vị tướng tương lai.
Học tập bốn năm, ông Lê Văn Tri trở về nước được điều làm Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, rồi chuyển sang làm Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân. Khi Tư lệnh kiêm Chính ủy Đặng Tính chuyển vào làm Chính ủy Bộ đội Trường Sơn 559 thì ông Lê Văn Tri được đề bạt làm Tư lệnh, còn ông Hoàng Phương làm Chính ủy quân chủng.
Kể từ đây, với tư cách một trong những sĩ quan cao cấp quan trọng của quân đội, ông Văn Tri thực sự trực tiếp tham gia vào nhiều sự kiện trọng đại của đất nước trong cuộc chiến tranh cứu nước, đặc biệt là trực tiếp chỉ huy Chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" ở Hà Nội năm 1972 và trận tấn công sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn phát tín hiệu mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân năm 1975.
Sinh trưởng ở Quảng Bình nhưng Trung tướng Lê Văn Tri có nhiều duyên nợ với đất phương Nam. Thuở nhỏ ông theo anh trai vào Sài Gòn kiếm sống, lên Biên Hòa tham gia lực lượng Thanh niên Tiền phong trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Quân Pháp tái xâm lược, ông trở về quê hương Quảng Bình gia nhập quân đội, khởi đầu cuộc đời binh nghiệp từ những trận đánh ở Cổng Trời biên giới Việt - Lào. Cuối đời, sau khi rời chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật của Bộ Quốc phòng, vị tướng dạn dày trận mạc lại về gắn bó với từng bước phát triển của thành phố phương Nam tại Gò Vấp, cùng người bạn đời hưởng những ngày hạnh phúc tuổi già cho đến khi từ giã cõi đời vào năm 2006.
PHAN HOÀNG