Chiếc ghe cặp lại ở một bến khá vắng. Xung quanh là một màu xanh trải mênh mông của đồng lúa và những đám rẫy, nhà cửa chỉ lưa thưa vài nóc và cái nào cũng lụp xụp. Định chạy ra vàm kinh rồi hãy ghé đậu ghe lại ăn cơm nhưng cũng đã quá buổi mà chưa người nào có gì vào bụng nên chị Hai kêu cặp ghe lại ăn cho xong bữa rồi đi tiếp. Chiếc ghe dần tấp vào bờ kinh. Tôi chạy đến buộc dây ghe vào một gốc cây gần đó rồi trở vô. Có tiếng bìm bịp kêu đâu đó nhưng nhìn xung quanh lại không thấy, chỉ thỉnh thoảng có bầy chim nào xà xuống xôn xao rồi lại vài con rướn mình bay khỏi các lùm cây tạo ra những âm thanh giữa cái tĩnh mịch của một buổi trưa nắng tràn.
Chị Hai tôi là dân thương hồ, nhưng là thương hồ "tập sự" chứ không phải "con nhà nòi". Chiếc ghe nhỏ chuyên bán đồ tạp hóa, y như một cửa tiệm di động. Thường thì chúng tôi đi bán hàng ở những vùng xa xôi, nơi đường sá khó khăn, hoặc bán trong đồng cho những người nông dân. Tôi được giao làm "tài xế" cho chiếc ghe nầy. Cũng mấy năm trời dọc ngang vùng sông nước, kinh rạch miền Tây hầu như chị em tôi rành "sáu câu", nhứt là vùng Tứ giác Long Xuyên và miệt U Minh những nơi chúng tôi thường đi nhiều. Việc buôn bán của chị Hai không lời lãi gì nhiều, được bao nhiêu sắm sửa cho con Nhi và mua thêm hàng hóa bán tiếp. Vậy mà vui
* * *
Sáng hôm sau chị Hai giao ghe lại cho tôi trông coi, nói là lên chợ mua vài thứ. Tôi cứ nhìn miết theo cái dáng gầy mảnh mai đang khuất dần về phía xa. Tội nghiệp, còn đang tuổi xuân thì, không phải là giai nhân nhưng chị cũng là một cô gái khá, nghĩa là nếu chị chỉ cần gật đầu có cả khối đàn ông đi theo, vậy mà chị chỉ suốt ngày ở trong cái ghe nầy, thân phận nổi trôi cùng sông nước, từ chối hầu như tất cả mọi giao tiếp với bên ngoài nếu không có liên quan đến chuyện mua bán, đứa con gái nhỏ của chị mới mấy tuổi đầu cũng phải tập đi tập nói trên ghe
Một lát sau, chị hớt hải trở về, vẻ mặt tái xanh nhưng lại hiện rõ vẻ vui mừng. Chị nói gặp thơ của anh rể tôi đăng báo, rồi đưa tờ báo đó cho tôi coi. Chị hỏi tôi thấy bài thơ hay không. Cha mẹ ơi, chuyện văn chương chữ nghĩa nầy ai biết gì mà coi, nhưng thấy cái tên "Lê Phương Đình" rành rành biết chắc là anh rồi. Tôi ngồi im không nói, cứ dán mắt vô tờ báo ra vẻ đọc đọc nhưng thật ra đang muốn chờ xem thái độ của chị. Chị vẫn không nói gì, vẻ buồn buồn.
Ăn cơm xong chị dỗ con Nhi ngủ. Vậy mà nó vẫn không ngủ. Chị nhìn nó lâu thiệt lâu - cái nhìn lạ lắm. Hồi lâu sau chị nói nhẹ:
"Nhi ngoan nè, ngủ đi rồi má dẫn con đi gặp ba".
Mắt con nhỏ sáng trưng:
"Ba hả ?".
Chị nhìn nó, mím môi, nói nhát gừng:
"Ừ !".
Hai con mắt nó láu liên:
"Ba ra làm sao vậy má ?".
"Ừ
thì
thôi ngủ đi, rồi má dẫn con đi gặp, nói con cũng không biết đâu".
Nghe chị nói mà lòng tôi đau thắt, có cái gì đó nghe buồn buồn. Trời ơi ! Chi mà khổ vậy chị ?
* * *
Chị em tôi là con trong một gia đình không giàu có gì mấy nhưng cũng không đến nỗi tệ.
Hai mươi tuổi chị bước lên xe về nhà chồng. Anh Đình chồng chị là một người đa tài và
đa tình. Phải nói, anh là một chàng lãng tử "chính hiệu", làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc. Hầu như khi quen một người con gái nào anh đều làm dăm ba bài thơ tặng cô ấy (và chị tôi cũng không ngoại lệ). Chị thường nói anh là người có máu lang bạt kỳ hồ, cứ thỉnh thoảng anh lại đi một nơi nào đó không biết, làm gì đó không biết, để rồi khi về nhà lại cặm cụi viết viết, và cứ thế những xấp giấy cứ dày lên dần - những trang bản thảo cứ gửi đi nhưng chưa thấy một lần hồi âm. Rồi một hôm, anh lại tất tả ra đi với cái balô gọn hơ chỉ vỏn vẹn vài bộ quần áo và xấp giấy dày cộm. Chị Hai cứ tưởng cũng như những lần trước, anh đi ít bữa rồi về. Anh nói có nhà xuất bản nào đó chịu xuất bản tiểu thuyết của anh, cái tiểu thuyết có tên là dòng sông trắng dòng sông đen gì đó, anh phải đi theo tiếng gọi của nghệ thuật, bắt đầu một chặng đường mới, chừng nào hết còn gì để viết anh sẽ về
Vậy là anh cất bước đi ra khỏi căn nhà của mình, chị chỉ nhìn theo mà không nói được một lời ngăn cản. Lúc ấy anh đâu biết rằng vợ mình vừa mang thai hai tháng. Sau nầy chị kể: lúc đó chị thấy trong mắt anh tóe lên một cái gì đó hạnh phúc lắm như vừa tìm được tri âm, vừa thấy được con đường sáng trước mặt nên chị để cho anh đi, vậy thôi.
Anh đi rồi chị trở về nhà tía má, không khóc, không cười, chỉ buồn buồn một cái gì đó xa lắm. Má khóc hết nước mắt, tía chỉ lặng nhìn chị mà không nói gì. Má la, nói con nầy ngu không biết cản nó để bây giờ nó đi ai lo cho hai mẹ con. Chị nhìn má, nói nhỏ nhẹ: "Để cho anh ấy đi má à, anh ấy là người lang thang, là kẻ độc hành, cản được bây giờ chứ có cản được suốt đời đâu, thôi thì anh ấy cứ làm những gì mà mình thích, khi nào mỏi gối chồn chân thì anh ấy vẫn còn có vợ có con để mà về
".
Anh Đình đi biền biệt tới bây giờ.
* * *
Nhiều người khách quen mua hàng của chị nói chị hiền, tôi thì không nghĩ vậy. Chị là người vô cùng ương bướng, ương bướng một cách khó tả. Chị không thích ràng buộc, việc gì đã quyết định là làm tới cùng. Chọn nghề thương hồ, chị không đi tìm chồng mà là tìm cha cho đứa con, chị không đi tìm tình yêu cho bản thân mà tìm lại tình cảm thiêng liêng nhứt vốn dĩ phải dành cho con mình. Chị không cần anh ấy phải xin lỗi rồi quay trở về mà chỉ cần cho anh ấy biết là mình có một đứa con, cần một câu nói, một cái hôn lên má con, chỉ vậy là đủ rồi
Cái gì đến rồi cũng đến. Sáng hôm sau chị nhìn tôi với cái vẻ đăm chiêu, rồi nói thật khẽ:
"Chị phải tìm anh Đình thôi cậu Ba à. Chị còn con Nhi
".
Tôi ngó bâng quơ, hỏi:
"Anh Đình đang ở đâu?".
"Nghe người ta nói anh đang ở Long Xuyên".
"Chị tính đi thiệt hả?".
"Ừ
".
"Thôi được rồi, chị muốn đi đâu em chở chị đi!".
Ghe đến Long Xuyên sau mấy ngày lênh đênh. Suốt mấy ngày nay chị như người mất hồn, cứ lo nghĩ đâu đâu, bán buôn không được gì cả. Con Nhi thì cứ ríu rít hỏi mẹ chừng nào gặp ba, ba ra làm sao
Có nhiều đêm chị nằm trong khoang khóc thút thít, như có chuyện gì ấm ức lắm, nhưng lại không muốn cho ai nghe. Ừ, thì chị cứ khóc đi, khóc một lần cho hết rồi còn lo cho con Nhi nữa, phải không chị ?
Sáng vừa rạng mặt người chị đã nhảy tót lên bờ, đi đến chiều mới trở xuống ghe, mặt phờ phạc, ngó mông lung nhưng chẳng để lục lọi cái gì. Đến gần tối, chị chỉ nói một câu: "Có một bà chủ quán cà phê nói anh Đình có ghé quán bả uống nước, nhưng anh ấy đi Mỹ Tho từ hôm qua rồi
". Rồi chị nằm xuống ôm con Nhi vào lòng, mái tóc dài phủ nửa bên mặt, qua ánh sáng mờ mờ của những ngọn đèn trên bến, tôi thấy vai chị run run.
Không biết chị có muốn đến Mỹ Tho nữa không? Mà, đến Mỹ Tho rồi liệu có gặp được anh Đình không, hay lại phải quày quả ra đi? Anh Đình và giấc mơ văn chương của anh vẫn còn phía trước, vẫn lang bạt kỳ hồ với mớ chữ nghĩa của mình. Còn chiếc ghe nầy - chở theo vợ và đứa con của anh - vẫn nổi trôi sông nước, dạo khắp xứ sở, cứ coi như là đi bán buôn cũng được, hoặc coi như là đi tìm anh cũng được, những chuyện đó không là gì cả. Ai cũng như ai, cũng phải nổi trôi giữa cuộc đời này thôi, đi mãi nhưng mấy khi được quay về.
Hai cánh bèo cùng trôi trên một con sông, nhưng biết đến khi nào hai cánh bèo ấy mới gặp được nhau?