19/11/2017 - 14:18

Thầy tôi

NGUYỄN NGỌC TUYẾT

Bằng tấm lòng kính ngưỡng biết ơn, tôi xin được viết đôi nét về thầy. Thầy Giản Chi Nguyễn Hữu Văn.

Cuộc sống đã đành khinh gió bụi
Lòng người ai chẳng có quê hương.

Mấy câu thơ mang nỗi niềm ấy, chỉ sau ngày thầy mất tôi mới được đọc trên báo. Nhưng trong lòng tôi, trong lòng sinh viên Việt Hán ngày ấy, thầy tôi lúc nào cũng rất thi sĩ, dù rằng trên cương vị nhà giáo thầy vẫn là một học giả đáng kính với bao công trình lớn.

Quê thầy ở ngôi làng nổi tiếng văn vật tại Hà Nội. Thầy là một trong những người cuối cùng của chế độ khoa bảng, rồi chuyển sang tân học tại trường cao đẳng công chánh Hà Nội. Ra làm công chức, tính tình cương trực, có lúc thầy bị đổi lên các tỉnh miền ngược. Sau này, thầy vô Nam làm bưu điện đến khi nghỉ hưu và được thỉnh giảng ở các trường đại học. Tôi, đứa học trò tỉnh lẻ Cần Thơ may mắn được học thầy những năm 1969, 1970 dưới mái trường Đại học Sư phạm Sài Gòn.

Những năm đó thầy dạy chúng tôi môn Văn học Trung Quốc, chủ yếu là phần thơ ca. Thầy tôi bao giờ cũng giảng bài ung dung, chậm rãi như một nhà Nho xưa. Giọng nói trầm, hơi khàn của thầy bao giờ cũng bay bổng tứ thơ, lấp lánh vẻ đẹp của ngôn từ. Bởi thầy còn là một nhà thơ tinh tế trong sáng tác, cũng như dịch thơ chữ Hán ra tiếng Việt. Giờ học nào của thầy bọn tôi cũng say mê dịch thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Xương Linh, Vương Duy… rồi đem lên thầy chỉnh sửa. Thầy đã ươm mầm say mê thơ phú cho lớp trẻ chúng tôi, nên mỗi giờ học là bao niềm vui được sáng tác, xuýt xoa cái đẹp của văn chương.

Thầy còn dạy lớp sinh viên chúng tôi bao bài học làm người. Còn nhớ có lần bàn đến mấy câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Thầy nói: Đừng thuận theo thuyết thiên mệnh, phải cố hết sức để “tận nhân lực mới tri thiên mệnh”, mà chiến thắng số phận. Có vậy cuộc sống mới ý nghĩa. Lời dạy của thầy tôi luôn khắc ghi mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc đời.

Đọng lại trong tôi nhất là ngày liên hoan ra trường sau ba năm học tập của lớp Việt Hán chúng tôi. Buổi chia tay năm ấy, lớp tôi mời hai thầy là nhà ngữ học Trương Văn Chình và thầy. Tôi vẫn nhớ như in khung cảnh ấm cúng thân mật của buổi tiệc do chúng tôi cùng nhau nấu nướng. Cuối cùng là cảnh tượng cả lớp, 30 đứa học trò đi phía sau thành hai hàng tiễn các thầy ra tận cổng trường, nước mắt tràn mi vẫn còn đậm nét trong tôi dù đã suýt soát 50 năm qua. Mỗi lần mở hình ra nhìn lại, dù đã sắp bước vào tuổi “Cổ lai hy”, lòng tôi vẫn nao nao.

Ra trường, về dạy ở một tỉnh miền Tây, tôi vẫn viết thư cho thầy cũng như hằng năm thầy đều gởi thiệp mừng Tết cho đứa học trò cũ. Sau này có gia đình rồi bận rộn công việc, tôi ít có dịp liên lạc với thầy nhưng tin tức về thầy tôi vẫn biết rõ qua các bạn trên Sài Gòn. Sau ngày đất nước thống nhất, mấy lần con trai thầy muốn đưa thầy ra nước ngoài cùng gia đình, nhưng thầy kiên quyết ở lại, sống êm ả ở căn nhà xưa cùng cô cháu gái và luôn được học trò đến thăm. Gần cuối đời, thầy vẫn minh mẫn, sáng suốt. Ngày đại thọ 100 tuổi của thầy, tôi không về được, chỉ theo dõi qua báo, đài và nghe bạn đồng môn kể lại mà thấy vui sướng trong lòng.

Thầy tôi mất hai năm sau đó. Tôi chạy về thành phố đưa tang cùng bao lớp học trò yêu kính thầy, nhìn tóc bạn bè người nào cũng bạc gần hết mà rưng rưng cảm hoài. Một anh bạn bệnh khớp phải vịn vào vai tôi để bước lên bậc thang ngậm ngùi: “Người thầy cuối cùng của mình đã đi rồi!”. Câu nói làm tôi nước mắt tuôn trào.

Những ngày tháng 11 này, nhớ thầy và những kỷ niệm xưa, lòng lại thầm gọi: Thầy ơi!

Chia sẻ bài viết