29/12/2012 - 16:04

Thắp lửa

Tôi có dịp về Tri Tôn, một huyện biên giới miền núi Tây Nam An Giang - mảnh đất đã in dấu biết bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ sôi nổi, nhiệt tình và đầy lãng mạn của tôi cách nay gần 20 năm.

* * *

Những năm đầu của thập kỷ 80, tôi và vài người bạn đều là những sinh viên mới tốt nghiệp của Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã xung phong nhận nhiệm sở ở vùng khó khăn nhất của tỉnh An Giang. Sau buổi họp mặt để nhận quyết định của Ty Giáo dục, chúng tôi hăm hở lên đường. Ngồi trên xe đò chạy vòng vèo theo con đường vào xứ núi xa tắp, lòng tôi cứ nôn nao bao cảm giác thật khó tả. Thế là mình đã là một cô giáo, lại là một cô giáo trẻ muốn đem tất cả tâm huyết của mình cống hiến cho đất nước.

Xe dừng lại. Thị trấn Tri Tôn hiện ra trước mặt. Chúng tôi xách va ly đứng ngơ ngác giữa lòng thị trấn. Hóa ra đây là vùng đất nằm lọt thỏm giữa bốn bề là núi trông như một thung lũng. Những mái chùa cong cong sáng lấp lánh với những màu sơn đủ sắc màu đã tạo nên một nét đặc sắc rất riêng biệt của nền văn hóa Khmer. Sau một lúc vừa đi vừa hỏi đường, chúng tôi cũng tới được Trường Phổ thông trung học Tri Tôn. Gọi là trường cho oai chứ thực ra đây là một phần khuôn viên của nhà chùa cho mượn, địa phương đã xây thêm một dãy phòng học nữa và thế là thành trường cấp ba Tri Tôn.

Đón tiếp chúng tôi là thầy Triều, hiệu phó của trường. Thầy Triều quê ở Châu Đốc đã dạy ở đây được vài năm. Thầy dẫn tôi đi nhận phòng tập thể. Đó là một căn nhà kho nằm phía sau ngôi trường. Nhà được xây gạch ngăn ra từng phòng làm kho và phòng ở cho giáo viên. Tôi mở cửa. Cánh cửa gỗ cũ kỹ kêu kọt kẹt, không được chắc chắn lắm. Căn phòng có chiều ngang khoảng một mét sáu, chiều dài khoảng ba mét, vừa đủ kê một chiếc giường đơn và vài món đồ lặt vặt. Khi tôi quét dọn lau chùi vừa xong thì trời đã bắt đầu sụp tối. Tôi cùng nhỏ bạn thả bộ ra ngoài thị trấn để tìm mua đèn dầu vì ở đây chưa có điện. Ánh hoàng hôn trong buổi chiều tà khiến lòng tôi chợt quay quất nỗi nhớ nhà.

Công việc của năm học đã cuốn hút chúng tôi. Tôi được phân công chủ nhiệm lớp 12. Chao ơi, học trò ở vùng núi sao mà lớn lạ. Đa số các em đi học trễ nên có em đã 20, 21 tuổi. Cô giáo mới ra trường cũng chỉ mới 23. Cô trò chẳng hề cách biệt mấy về tuổi đời. Được cái đa số học trò đều ngoan nên cô nói gì trò nghe nấy. Ngoài giờ đi học, trò quăng tập vào góc nhà là xốc lên vai công việc đồng áng. Kiểm tra bài không thuộc, trò hồn nhiên trả lời: "Bữa khác trả bù cô ơi! Hôm qua em mắc đi làm rẫy tối hù mới về. Em không kịp xem bài…" .

Công việc của giáo viên văn cấp ba kiêm luôn việc dạy các em cách viết đúng chính tả, cách dùng từ và viết câu đúng ngữ pháp. Thế đấy, học trò 12 nơi khác suốt ngày lo luyện thi đại học, còn học trò xứ núi vùng biên đang đi chập chững từng bước đầu tiên để lấy lại căn bản. Chúng tôi buộc phải dành thời gian nghỉ ngơi của mình để dạy phụ đạo cho các em mà không thu một khoản lệ phí nào cả. Mà dẫu có muốn thu cũng rất khó vì đa số gia đình các em đều rất nghèo. Cha mẹ các em cho các em đến với lớp phụ đạo đã là điều quý lắm rồi. Còn chúng tôi, với đồng lương ít ỏi, dẫu có tằn tiện cách nào cũng khó mà chia đủ cho chi phí của ba mươi ngày.

Ăn thiếu, mặc thiếu, nhưng nhiệt tình của những thầy cô giáo trẻ lúc ấy không thiếu. Hầu hết thầy cô giáo chấp nhận đến mảnh đất này để cống hiến chớ không phải để đòi hỏi. Họp tổ, họp hội đồng sư phạm vẫn vang lên bao cuộc tranh luận về phương pháp dạy như thế nào cho đối tượng học sinh đặc biệt này. Tối tối, bọn tôi vẫn tranh thủ đến nhà học sinh, thăm các em học nhóm và tranh thủ chỉ dẫn thêm những điều các em chưa hiểu. Những ngày chủ nhật, học trò rủ thầy cô đi thăm rẫy của gia đình chúng. Thầy cô leo núi thở phì phò khi học trò đã leo tuốt ở đằng trước, cười toe toét khoe hàm răng trắng bóng. Khí hậu xứ núi thật khắc nghiệt nhưng dường như những ai đã từng sinh ra và lớn lên ở xứ này đều như được miễn dịch vậy. Còn chúng tôi lại chẳng nhận được sự ưu ái ấy mà lại còn trở thành đối tượng để khí hậu xứ núi thử thách. Những ngày nắng cháy da, cháy thịt, căn phòng tập thể như những chiếc lò hấp bánh mì đang hoạt động. Đã vậy, giếng nước vào mùa khô tưởng như bị cái nắng nóng vắt đến cạn kiệt nguồn nước. Cả khu tập thể mười mấy người dè sẻn từng ca nước ngọt, có ngày phải đi chở nước từ một cái giếng sâu ở xa trường hơn cây số về để dùng. Mùa đông ở đây ban đêm lạnh đến cắt da cắt thịt.

* * *

-Cô Quyên có nhớ em không ? Một giọng nữ trong trẻo vang lên bên cạnh. Tôi nhìn người phụ nữ trạc 30 tuổi và nhận ra ngay những nét quen thuộc của cô học trò cũ, nhà ở bên cạnh trường, mừng rỡ buột miệng: " Kim Xiên"

-Dạ…Đúng là Kim Xiên đây, không ngờ cô cũng còn nhớ em…Lâu lâu, tụi bạn đọc báo thấy bài viết của cô, chuyền nhau đọc, kể chuyện ngày xưa và mong gặp lại cô nhưng không có dịp…Em ở bên nhà nhìn thấy bên trường có người lạ, tự dưng em nghĩ là cô, không ngờ là thật… Cô… khỏe không cô ?

-Khỏe và… già đi phải không em. Còn em… Tôi bỏ lửng câu hỏi và đưa mắt nhìn cháu bé đứng bên cạnh Kim Xiên, cũng nước da ngăm ngăm, đôi mắt đen láy long lanh…

-Dạ… con gái của em. Chào cô đi con !

Tôi ôm đứa bé. Mùi nắng vương trên mái tóc cháu bé y như mùi tóc của lũ học trò nữ của tôi ngày xưa, chúng thường đến nằm bên tôi lặng im nghe tôi kể chuyện học trò trên thành phố, với những câu hỏi thật vô cùng ngây ngô: "Câu lạc bộ thơ văn là gì hả cô ?"; "Thế nào là đi thực tế sáng tác hả cô?"; "Trời ơi, học trò ở đó được gặp, được nghe Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Nhà văn Sơn Nam, Nhà thơ Chim Trắng…nói chuyện nữa hả cô. Biết chừng nào tụi em mới được gặp các ông ấy…" .

* * *

Năm tháng dần trôi, tình người ở mảnh đất khô cằn này lại nồng ấm đã xua đi bao nỗi buồn, nỗi nhớ nhà. Chẳng biết tự bao giờ, chúng tôi đã vui với niềm vui của các em, và cũng lo lắng trước những khó khăn của học trò mình. Có lẽ vì thế mà các em cũng gắn bó thân thiết với chúng tôi như những người bạn. Các em dạy chúng tôi tiếng dân tộc Khmer, dẫn chúng tôi dự lễ hội Dolta hoặc dẫn về nhà các em ăn Tết của dân tộc mình. Cha mẹ các em bưng những ca nước thốt nốt mời chúng tôi long trọng như mời những vị khách quí vậy. Có những em đã tin cậy tâm tình với tôi bao chuyện riêng tư-từ chuyện học hành, bạn bè, tình yêu cho đến nghề nghiệp.

Bây giờ, tôi biết có nhiều em đã chọn ngành sư phạm vì đã tâm đắc với điều tôi từng nói: "Chúng tôi chỉ là những người thắp lên ngọn lửa tri thức còn muốn ngọn lửa ấy sáng mãi phải là đội ngũ trí thức của chính mảnh đất Tri Tôn này."

Kim Xiên cho tôi biết, trường cấp ba Tri Tôn nay được xây dựng khang trang và mang tên người anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, thầy cô giáo đông, học trò cũng đông, hằng năm đều có học sinh giỏi thi đậu vào các trường đại học. Kim Xiên tự hào khoe cho tôi biết, hầu như đường từ trung tâm huyện đến các xã đã được tráng nhựa, xã nào cũng có khu trung tâm đầy đủ phố chợ và trường học, nhà ở bên đường không còn tranh tre nữa…Tôi biết, đó là thành quả của chương trình Nhà nước đầu tư cho vùng núi, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…cả ba tiêu chuẩn trên, Tri Tôn đều có…nên đổi thay phải nhanh, phải khác…

Đã mười mấy năm trôi qua, xứ núi Tri Tôn ngày ấy nay đã phát triển. Tôi đi ngang ngôi trường Phổ thông trung học Tri Tôn được xây dựng khang trang và mang tên người anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực và ngôi Trường Dân tộc nội trú với một cơ ngơi khá bề thế. Trong số thầy cô đang giảng dạy ở Tri Tôn có rất nhiều học trò của tôi thuở ấy. Đời sống của các em ngày nay không còn khó khăn như chúng tôi ngày xưa nhưng các em đều giống chúng tôi ở lòng yêu nghề, ở bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ. Những Châu Sóc Hoanh, Châu Thị Kim Hoa…Những Kim Xiên, Cà Bâu…Dũng, Thành, Thạch, Hiệp…Những lớp học trò ngày xưa ấy đã và đang là những người thắp sáng ngọn lửa tri thức để thúc đẩy mảnh đất Tri Tôn ngày một đẹp giàu hơn.

Hoàng Mai Quyên

Chia sẻ bài viết