16/06/2009 - 09:21

Nông nghiệp từng bước phát triển trong hội nhập

Nhiều chuyên gia kinh tế đã từng nhận định: khi gia nhập WTO, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối đầu với nhiều khó khăn thách thức, nhiều hộ nông dân sẽ điêu đứng vì hàng hóa sản phẩm làm ra không đủ sức cạnh tranh ... Tuy nhiên, qua hai năm gia nhập WTO, nông nghiệp, nông dân nước ta tiếp tục có những bước phát triển. Nhiều sản phẩm của ngành nông nghiệp như gạo, cà phê, điều, hồ tiêu, trái cây , thủy sản... tiếp tục khẳng định vị thế trên thị trường thế giới. Không những thế, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đóng vai trò “trụ đỡ” cho nền kinh tế trong cơn suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay.

Đạt mức tăng trưởng cao

Ngành nông nghiệp Việt Nam đã tiếp tục có những bước khởi sắc đáng mừng, mặc dù 2 năm qua, đất nước ta phải đối mặt với nhiều thiên tai, dịch bệnh, nhất là cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu. Với tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế nông nghiệp năm 2007 đạt 3,4%, năm 2008 đạt 3,79% là một cơ sở cho thấy ngành nông nghiệp đã thích ứng khá tốt với sân chơi toàn cầu. Trong 2 năm qua, kim ngạch xuất khẩu của ngành tiếp tục tăng trưởng cao. Năm 2007 đạt 10,9 tỉ USD, tăng 21,7% so với năm 2006; năm 2008 mức tăng đạt khoảng 23 - 25% so với năm 2007. Trong năm 2008, các mặt hàng chủ lực của ngành nông nghiệp đều tăng, như: hạt điều tăng khoảng 40%; gạo trên 90%; cao su khoảng 15%; thủy sản 21%; rau quả tăng gần 30%... Trong 5 tháng đầu năm 2009, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đã tác động sâu hơn và gây không ít khó khăn, nhưng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản... cũng đạt được 6,44 tỉ USD, tăng 1.04 % so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, ngoài những thị trường xuất khẩu truyền thống, thì một số thị trường xuất khẩu mới đã bước đầu có sản phẩm nông nghiệp Việt Nam xâm nhập như Nam Mỹ, Nam Á, châu Phi ...

Trong năm 2008 và những tháng đầu năm nay, nhờ được đẩy mạnh xuất khẩu, nên giá chôm chôm Java có thời điểm lên tới 20.000 đồng/kg. Ảnh: khánh trung 

Một thành tựu lớn của nông nghiệp chính là trình độ chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp theo hướng chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp là chính sang sản xuất hàng hóa mang tính hiện đại gắn với thị trường khu vực và quốc tế. Từ đổi mới tư duy kinh tế đến đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đầu tư cũng như áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đưa nông nghiệp liên tục tăng trưởng, chỉ tính riêng năm 2008, GDP của nông nghiệp tăng 3,79% , chiếm 21,9% GDP chung cả nước ( năm 2007 tăng 3,4%); sản lượng lương thực đạt 43,16 triệu tấn, tăng 3 triệu tấn so với năm 2007 ( trong đó sản lượng lúa đạt 38,6 triệu tấn, tăng 2,7 triệu tấn); sản lượng thủy sản đạt trên 4,5 triệu tấn. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đang đứng vị trí quan trọng trên thị trường thế giới như: Xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới ( sau Thái Lan); xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới ( sau Brazil); xuất khẩu hạt điều liên tục đứng thứ 2 thế giới ( sau Ấn Độ), riêng năm 2008 vượt Ấn Độ, đứng thứ nhất thế giới về số lượng; nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu khác của Việt Nam luôn đứng trong tốp 10 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới như: cao su, chè, thủy hải sản... Nhiều hàng nông sản đã vào được thị trường đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng cao như Mỹ, Nhật Bản, EU, Australia, New Zealand... Đến nay, đã có 17 mặt hàng nông sản xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, gồm bưởi Năm Roi, bưởi da xanh, nhãn tiêu da bò, vải thiều, chôm chôm Đồng Nai, thanh long Bình Thuận, chanh quả, ớt, mãng cầu ta Tây Ninh, sa-pô, dưa hấu, chuối tiêu, vú sữa Lò Rèn, khóm, dừa, xoài cát Hòa Lộc, xoài cát Chu... Tổng giá trị xuất khẩu rau quả năm 2008 đạt 390 triệu USD. Với con số này, chúng ta hoàn toàn có khả năng về trước thời gian kế hoạch đạt 450 triệu USD kim ngạch xuất khẩu rau quả vào năm 2010.

Ngoài ra, ở nhiều địa phương và hộ nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao là các sản phẩm đa dạng của nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Chỉ tính riêng ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có khoảng 300.000 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp được chuyển sang nuôi trồng thủy sản và hàng chục ha ven biển, ven sông, đất bồi bãi, đất hoang hóa trước đây ở một số tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được cải tạo để nuôi tôm sú, cá tra, ba sa... Ngày càng có nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất đa canh, hiện đại, có tỷ suất hàng hóa cao, hội nhập được với thị trường quốc tế...

Từng bước thích nghi với hội nhập

Mấy năm gần đây, để thích nghi với xu thế hội nhập, nhiều nông dân đã nỗ lực vượt qua khó khăn, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây dựng những mô hình sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Điển hình như về mô hình trồng hoa xuất khẩu có bước tiến vượt bậc. Chỉ sau 15 năm đầu tư, các công ty nước ngoài và nông dân ở Lâm Đồng đã xây dựng hệ thống sản xuất hoa và giống hoa sánh ngang với trình độ sản xuất hoa tiên tiến nhất thế giới của Hà Lan. Hiện nay, vùng hoa ứng dụng công nghệ cao ở đây đã lên tới 10.000 ha, thu nhập đạt 100 triệu đồng đến 2 tỉ đồng/ha, trong đó có 1.200 ha hoa trồng trong nhà kính, nhà lưới. Nông dân Việt Nam đã xuất khẩu được hoa và giống hoa sang thị trường Nhật Bản, Australia, EU... Theo Sở NN& PTNT Lâm Đồng, năm 2008 kim ngạch xuất khẩu hoa của tỉnh đã đạt 66 triệu USD, tăng bình quân 20%/năm.

Về trái cây, một thí dụ là không ai nghĩ có thể xuất khẩu được mãng cầu ta vì khó chế biến, vỏ mỏng, mau chín, khó vận chuyển. Nhưng hiện nay, nông dân ở Tây Ninh đã xây dựng được vùng chuyên canh mãng cầu ta rộng gần 4.000ha có chất lượng cao, trồng theo kỹ thuật tiên tiến, phân lô theo tuổi vườn, áp dụng trồng một tuổi giống, chăm sóc theo quy trình, đồng loạt đánh lá và bón phân, tưới tiêu chủ động, thu hái đúng độ chín để xuất khẩu. Nhiều nông dân giỏi còn chăm cho cây tốt rồi đồng loạt tuốt hết lá, tạo khô hạn, kích thích ra hoa trái vụ, giá trị thu nhập tăng gấp 4-5 lần so với chính vụ. Mãng cầu ta Tây Ninh có trái đều, trọng lượng khoảng 300 - 350g/trái, mắt lì và nở màu xanh ngọc, vỏ mỏng. Gần đây, Tây Ninh đã xuất khẩu được mãng cầu qua đường hàng không. Vì thế ở vùng này đã xuất hiện một từ: “Mãng cầu bay”.

Trong quá trình hội nhập, để đáp ứng tiêu chuẩn thị trường thế giới về chất lượng sản phẩm... hệ thống tổ chức sản xuất - khoa học nông nghiệp và nông dân, tổ chức Hội Làm vườn các cấp đã tập trung nghiên cứu, tổng kết, phổ cập công nghệ VietGAP để nhân rộng các mô hình GAP như hợp tác xã nho Ba Mọi (Ninh Thuận), hợp tác xã gạo Tân Hiệp (Kiên Giang), hợp tác xã trái cây Mỹ Thành (Tiền Giang), hợp tác xã chè Tân Cương (Thái Nguyên)... , tạo nên giá trị gia tăng và lợi nhuận cho nông dân.

Ngoài ra, thị trường nông sản Việt Nam cũng đã được mở rộng theo đúng những cam kết khi vào WTO. Do đó nhiều mặt hàng nông sản của các nước với chất lượng và độ an toàn thực phẩm cao, giá cả hợp lý đã, đang thâm nhập và cạnh tranh với các sản phẩm Việt Nam ngay trên thị trường trong nước. Điều này cũng có tác động khá lớn đến nhận thức và tư duy của người làm nông nghiệp Việt Nam. Tư duy “năng suất cao, sản lượng nhiều bằng mọi giá” đang dần được thay thế bằng “chất lượng cao, chi phí thấp, sản phẩm sạch” để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm kể cả ở thị trường trong và ngoài nước. Thêm một sự chuyển biến tích cực đáng ghi nhận góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển đó là, vai trò của Nhà nước đối với nông nghiệp đã được tăng cường, điều chỉnh cho phù hợp với cam kết khi vào WTO và những biến đổi của thị trường thế giới.

Còn nhiều bất cập cần tháo gỡ

Bên cạnh những bước tiến vượt bậc đó vẫn còn tồn tại nhiều bất cập làm cản trở đến quá trình phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam trước đây cũng như trong giai đoạn tiếp theo. Đó là, cơ cấu ngành nông nghiệp nông thôn chuyển dịch chậm, chưa hợp lý, giá trị dịch vụ nông nghiệp nông thôn nhỏ bé; nhiều nguồn tiềm năng to lớn trong nông nghiệp chưa được khai thác hiệu quả (đất đai, lao động, vốn nhàn rỗi trong dân cư nông thôn...); Sản xuất nông nghiệp về cơ bản vẫn là sản xuất thủ công, quy mô nhỏ, phương tiện canh tác lạc hậu, năng suất, chất lượng sản phẩm còn thấp, giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế; Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tuy đã được tăng cường nhưng vẫn còn yếu kém... Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cũng đã từng phân tích, chi phí sản xuất cao đang là trở ngại lớn đối với người nông dân. Kinh tế khu vực nông thôn phần lớn đang phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch. Từ đó dẫn tới việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm bị động. Đó là chưa kể tốc độ cơ giới hóa chậm, công nghệ chế biến lạc hậu. Mặt khác, cho đến nay thực trạng sản xuất nông nghiệp về cơ bản là manh mún, công nghệ chế biến, bảo quản thô sơ, chưa kết nối được giữa người sản xuất và tiêu thụ.

Những tồn tại yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên một số nguyên nhân đáng quan tâm. Đó là, đầu tư của Nhà nước cũng như toàn xã hội cho nông nghiệp, nông thôn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu khai thác nó; Chưa gắn kết được công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn, sản xuất với thị trường, cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu; Cơ chế chính sách và pháp luật còn chưa đủ, nhiều khi chưa thay đổi kịp với sự vận động biến chuyển của thực tế; Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn chiếm một tỷ trọng nhỏ (chiếm khoảng 12% số dự án và 4% tổng số vốn)... Trong khi đó, nhiều người vẫn nói nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp... nhưng thực sự chính sách đầu tư cho nông nghiệp vẫn chưa có sự chuyển biến nhiều như đã cam kết với WTO. Chỉ tính riêng năm 2008, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp là 8% thấp hơn mức cam kết với WTO là 10%; vốn FDI cho nông nghiệp không đáng kể, cả năm 2008 chỉ đạt 0,3% tổng vốn FDI đăng ký. Vốn ODA dành cho nông nghiệp cũng rất thấp; đầu tư cho khoa học kỹ thuật nông nghiệp có tỷ trọng 0,13% GDP của nông nghiệp (các quốc gia khác là 4%)...

Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, nông nghiệp Việt Nam với nhiều tiềm năng sẽ có đủ sức hội nhập sâu rộng nền kinh tế toàn cầu, nếu được đầu tư đúng mức, hợp lý. Ông Philíp Coler, nhà nghiên cứu marketing nổi tiếng thế giới, khi đến Việt Nam đã nói với các nhà doanh nghiệp rằng Việt Nam nên trở thành “cái bếp” của thế giới. Điều đó cho thấy thế giới đã nhìn thấy tiềm năng to lớn của nông nghiệp Việt Nam đối với kinh tế toàn cầu.

Vì vậy, để nông nghiệp phát triển bền vững, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước trong khu vực và trên thế giới, theo nhiều chuyên gia kinh tế, Việt Nam cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp, như: không ngừng đổi mới và nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế - xã hội; đẩy mạnh hoàn thiện các chính sách liên quan trực tiếp đến sản xuất, chế biến, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp; đổi mới phương thức quản lý đất nông nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng tới việc ổn định đất nông nghiệp; tăng cường đầu tư vốn ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn; tạo nhiều chính sách ưu tiên, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn...

LÊ HIỀN (TTXVN)

Chia sẻ bài viết