Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ vừa tổ chức hội nghị khoa học kỹ thuật thường niên. Trong các chủ đề, báo cáo của các chuyên gia đầu ngành tim mạch tại Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh thu hút sự quan tâm.

Ban Tổ chức tặng hoa cho các diễn giả. Ảnh: THU SƯƠNG
Rút ngắn khoảng cách giữa khuyến cáo và thực hành lâm sàng
Tại hội nghị, PGS.TS.BS Trần Viết An, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, Chủ tịch Hội Tim mạch can thiệp Mekong, báo cáo chủ đề liên quan đến việc sử dụng thuốc chống kết tập tiểu cầu và statin trong các hướng dẫn mới nhất của Hiệp hội Tim mạch châu Âu, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, đặc biệt là cập nhật của Hội Tim mạch Việt Nam.

PGS.TS.BS Trần Viết An báo cáo tại hội nghị.
Theo PGS.TS.BS Trần Viết An, trong thực hành lâm sàng hiện nay, vẫn tồn tại khoảng cách đáng kể giữa việc bác sĩ nắm vững khuyến cáo và việc áp dụng đầy đủ, tối ưu vào điều trị. Báo cáo tập trung phân tích những khoảng cách này trong quản lý bệnh hội chứng động mạch vành cấp, nhằm giúp bác sĩ rút ngắn khoảng cách thực hành, tăng tối đa lợi ích điều trị cho bệnh nhân.
Một trong những nội dung chính của báo cáo là liệu pháp kháng kết tập tiểu cầu, đặc biệt nhóm ức chế thụ thể P2Y12. Dù hiệu quả của các thuốc ức chế thụ thể P2Y12 mạnh trong phòng ngừa huyết khối đã được chứng minh rõ ràng, nhất là ở bệnh nhân hội chứng vành cấp được can thiệp mạch vành, nhưng việc kê đơn tối ưu vẫn còn hạn chế có thể do yếu tố chi phí điều trị, ràng buộc của bảo hiểm y tế... Điều này khiến nhiều bệnh nhân chưa được hưởng lợi hiệu quả điều trị đầy đủ từ các nghiên cứu lâm sàng.
Một nội dung quan trọng khác là vai trò của thuốc Statin cường độ cao trong kiểm soát LDL-cholesterol. Dù bác sĩ đều nhận thức rõ hiệu quả giảm biến cố của liệu pháp statin và phối hợp thuốc khác nhằm đạt mục tiêu kiểm soát LDL-c, nhưng trong thực tế, liều dùng thuốc statin và lựa chọn phác đồ phối hợp sớm chưa thật sự tối ưu, dẫn đến tỷ lệ đạt mục tiêu LDL ở bệnh nhân hội chứng vành cấp còn thấp. Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu LDL-c theo khuyến cáo chỉ khoảng 20%, đồng nghĩa với nguy cơ xảy ra biến cố tim mạch ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành cấp.
PGS.TS.BS Trần Viết An nhấn mạnh rằng chiến lược hiện nay trong tim mạch học là ưu tiên phòng ngừa tiên phát, đặc biệt trong bệnh động mạch vành. Ngành Y tế đang hướng đến tầm soát sớm, đánh giá nguy cơ tim mạch và điều trị dự phòng kịp thời. Xu hướng nghiên cứu tập trung vào cá thể hóa điều trị, trong đó nhiều công trình tại Trường Đại học Y Dược Cần Thơ và các cơ sở đào tạo ngành Y Dược khác đã chú trọng nghiên cứu về sinh học phân tử (gene), nhằm đánh giá đặc điểm cá thể của người bệnh, từ đó xây dựng chiến lược dự phòng tối ưu và điều trị phù hợp cho từng trường hợp.
Ngừa biến cố tim mạch nặng nề nhất bằng thuốc thế hệ mới
Đột quỵ não do tim là một trong những biến cố nặng nề nhất. BS CKII Võ Việt Thắng, Trưởng Khoa Tim mạch - Lão học Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ giải thích rõ cơ chế: “Nhiều người có bệnh lý tim mạch dẫn đến rối loạn nhịp tim dạng rung nhĩ. Chính rung nhĩ tạo điều kiện hình thành huyết khối trong buồng tim. Sau đó, cục huyết khối này theo dòng máu đi lưu thông. Khi di chuyển đến bất cứ nơi nào trong lòng động mạch mà không thể đi qua được, huyết khối sẽ tắc lại và gây ra hiện tượng nhồi máu. Phổ biến nhất là bệnh nhân bị nhồi máu não”. Các bác sĩ Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ thường xuyên tiếp nhận các trường hợp bệnh nhân cao tuổi hoặc người trung niên có yếu tố nguy cơ cao, nhập viện trong tình trạng đột quỵ não.

BS CKII Võ Việt Thắng thực hiện nhiều nghiên cứu về đột quỵ do rung nhĩ.
Căn bệnh này được gọi là đột quỵ vì nó thường xuất hiện rất đột ngột. Người bệnh đang sinh hoạt bình thường đột nhiên bị cục huyết khối lấp mạch máu não và có thể gục ngã ngay tức khắc. Mức độ tắc mạch nhẹ có thể dẫn đến nhồi máu não nhẹ (chỉ mất ngôn ngữ hoặc yếu liệt nửa người), nhưng nếu nặng hơn, bệnh nhân có thể hôn mê, rối loạn tri giác và bị đe dọa tính mạng. Nhồi máu não do huyết khối từ rung nhĩ là một trong những biến cố thường gặp và gây ra hậu quả nặng nề nhất so với các nguyên nhân đột quỵ não khác.
Vì vậy, BS CKII Võ Việt Thắng chia sẻ báo cáo Tối ưu hóa dự phòng đột quỵ bằng NOAC ở những bệnh nhân nguy cơ cao. Theo BS Thắng, khi tuổi thọ của người dân ngày càng tăng thì đột quỵ đang là một vấn đề sức khỏe rất lớn trong dân số. “Chương trình báo cáo này được đúc kết từ những kinh nghiệm thực tiễn tại Khoa Tim mạch - Lão học. Chúng tôi đã tiếp nhận rất nhiều bệnh nhân đột quỵ não, do huyết khối từ buồng tim mà nguyên nhân chính là rung nhĩ”, BS Thắng cho biết.
Hai thập niên gần đây, y học có bước tiến lớn với sự ra đời của nhóm thuốc NOAC, giúp dự phòng huyết khối hình thành ở bệnh nhân rung nhĩ. Tuy nhiên, đặc thù của nhóm thuốc này chỉ được chỉ định dự phòng cho những bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim, không bị hẹp van hai lá hoặc hẹp van động mạch chủ nặng.
Quản lý suy tim toàn diện: từ chiến lược cộng đồng đến cá thể hóa
TS.BS Bùi Thế Dũng, Trưởng Khoa Nội Tim mạch, Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết của việc kiểm soát toàn diện bệnh suy tim thông qua đề tài báo cáo “Quản lý toàn diện Suy tim, từ phòng ngừa đến điều trị theo khuyến cáo”.

TS.BS Bùi Thế Dũng khuyến cáo phòng ngừa suy tim từ các yếu tố nguy cơ.
Theo BS Bùi Thế Dũng, suy tim tạo ra gánh nặng rất lớn đối với ngành y tế và xã hội, không chỉ tại Việt Nam mà trên toàn thế giới. Suy tim là một hội chứng, hậu quả cuối cùng của rất nhiều bệnh lý phổ biến như: Tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh mạch vành và bệnh van tim. Theo thống kê, cứ khoảng 4 người trưởng thành thì sẽ có một người có nguy cơ mắc bệnh suy tim trong suốt cuộc đời.
Chính vì vậy, việc phòng ngừa để không suy tim là vô cùng quan trọng. “Chúng ta không nên đợi đến khi bệnh nhân đã bị suy tim mới bắt đầu điều trị”, BS Bùi Thế Dũng khuyến cáo. Việc quản lý người bệnh suy tim phải được tiếp cận, chẩn đoán và điều trị ngay từ khi xuất hiện các yếu tố nguy cơ. Bác sĩ cần sử dụng những phương tiện tốt nhất, các loại thuốc thích hợp để kiểm soát hiệu quả những bệnh lý đó.
Hiện nay, có bốn nhóm thuốc điều trị suy tim tốt nhất, thường được gọi là “tứ trụ”. Các loại thuốc này hiện đã có sẵn tại Việt Nam, bao gồm Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ. Bên cạnh thuốc, cần triển khai các phương tiện điều trị tiên tiến hơn, như cấy máy tạo nhịp tim, máy khử rung tim hoặc máy tái đồng bộ cơ tim. Phương pháp điều trị tối ưu nhất hiện nay cho người bệnh suy tim giai đoạn cuối là ghép tim.
Bên cạnh việc điều trị, giải pháp quản lý ngoại trú cực kỳ quan trọng. Theo TS.BS Bùi Thế Dũng, thế giới đã chứng minh Chương trình quản lý suy tim giúp giảm đáng kể tỷ lệ tái nhập viện cũng như tử vong cho người bệnh. Đây là khuyến cáo Mức độ I (bắt buộc phải làm) theo các hiệp hội tim mạch lớn. Tại Việt Nam, Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh đã triển khai chương trình này được khoảng 3-4 năm.
Hoạt động của chương trình: Khi một người bệnh suy tim nhập viện và hoàn tất điều trị, họ sẽ được mời tham gia chương trình. Người bệnh được thu thập thông tin cá nhân và được phát tài liệu hướng dẫn chi tiết về sử dụng thuốc, thói quen sinh hoạt, chế độ dinh dưỡng và tập luyện. Bệnh nhân có thể liên hệ qua đường dây nóng để trao đổi với nhân viên y tế bất kỳ khi nào có triệu chứng bất thường, giúp điều chỉnh kịp thời chế độ ăn uống và dùng thuốc. Nhân viên y tế thường xuyên trao đổi qua điện thoại hoặc mạng xã hội để hỏi thăm định kỳ (một tuần, một tháng...). Đồng thời, cán bộ y tế cũng chủ động liên hệ trước lịch tái khám để hỗ trợ người bệnh tái khám đúng hẹn. Việc tuân thủ thuốc đúng hạn là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả điều trị.
Thông qua chương trình, bệnh viện sẽ thu thập được dữ liệu khoa học quý giá cho nghiên cứu. Hiện tại, chương trình quản lý suy tim đã được Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh triển khai và kết nối với một số bệnh viện tuyến tỉnh như Bệnh viện Tim mạch An Giang, Bệnh viện Tim mạch Quảng Trị; và sẵn sàng hỗ trợ chuyển giao đến các bệnh viện khác.
THU SƯƠNG